thi vinh phap hoa kinh

Nếu Ban Tổ chức phát hiện tác giả vi phạm hai quy định nói trên thì sẽ có biện pháp chế tài phù hợp. - Thời gian nhận bài từ đầu tháng 8-2022. Bài dự thi gửi qua emai: nguoithaykinhyeu@gmail.com hoặc nguoithaykinhyeu@nld.com.vn; nếu gửi bản viết tay về Tòa soạn Báo Người Lao Thi thể người đàn ông trôi sông ở Vĩnh Long. Thứ năm, 1/9/2022 20:44 (GMT+7) Thi thể là nam giới chưa rõ nhân thân được người dân phát hiện trên nhánh sông Cổ Chiên, đoạn qua tỉnh Vĩnh Long. Khoảng 10h ngày 1/9, người dân phường 2, TP Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, phát hiện một thi Bài thuyết trình cắm hoa nghệ thuật 20/11 - Tôn Vinh Cô Giáo em. Kính thưa Ban giám khảo! Kính thưa quý thầy cô giáo kính mến! Em tên là…. Đại diện lớp…. Hôm nay, em rất vui được góp mặt trong hội thi cắm hoa nghệ thuật chào mừng ngày 20/11. Sở VH-TT&DL tỉnh Lâm Đồng vừa có văn bản đề nghị UBND tỉnh này điều chỉnh nội dung Kế hoạch Festival Hoa Đà Lạt lần thứ IX - năm 2022, trong đó có nội dung không tổ chức 2 trong số 10 chương trình chính của Festival Hoa Đà Lạt 2022 đã được phê duyệt gồm cuộc thi Hoa hậu Trái đất Việt Nam và Hội nghị Xúc Địa chỉ: Số 88 Võ Văn Kiệt, Khóm 3, Phường 9, TPVL, tỉnh Vĩnh Long - Đường dây nóng: 02703 830 814; Điện thoại: 02703 82 32 48; Fax: 02703 82 00 38; Email:stuphap@vinhlong.gov.vn Ghi rõ nguồn 'Trang Thông tin điện tử Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh Long' khi bạn phát hành lại thông tin từ Website này. Năm 2022, tỉnh Thanh Hóa được phân bổ cho các chương trình, dự án hơn 13.809 tỷ đồng. Cùng với việc giao kế hoạch vốn chi tiết sớm cho các chủ đầu tư, năm 2022 tỉnh Thanh Hóa đã triển khai quyết liệt các giải pháp chỉ đạo, với mục tiêu hoàn thành giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư công. Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Trong kho tàng kinh điển ại Thừa, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên Thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản. Các vị thiền sư Việt Nam đời Lý Trần cũng thường chú trọng trì tụng giảng dạy kinh Pháp Hoa song song với kinh Viên Giác, Kim Cang. Hai thiền sư Bảo Tịnh và Minh Tâm dưới đời Lý khoảng năm 1034 suốt 15 năm trì tụng kinh Pháp Hoa chưa từng trễ nải. Thiền sư Thông Biện, vị thiền sư thông thái đời Lý Thánh Tông, từng trả lời Phù Thánh Cảm linh nhân hoàng hậu về các câu hỏi liên quan lịch sử truyền bá Phật Giáo tại Việt Nam, Ngài thường dùng kinh Pháp Hoa dạy người sửa mình, nên người bấy giờ gọi sư là Ngộ Pháp Hoa. Thiền sư Chân Không tịch năm 1100 lúc 18 tuổi, tầm sư học đạo, nhân đến hội giảng của Thảo Nhất tại Chùa Tĩnh Lư núi ông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, bỗng nhiên tỏ ngộ. Sau đó Ngài được vua Lý Nhân Tông mời vào đại hội giảng kinh Pháp Hoa. Bấy giờ Thái Úy Nguyễn Thường Kiệt tức Lý Thường Kiệt và thứ sử Lạng Châu là tướng quốc Thân Công càng thêm kính trọng. Và ngày nay, trong hiện tại việc trì tụng kinh Pháp Hoa rất lan rộng trong giới Phật tử, giúp họ rất nhiều trên bước tu tâm hành thiện theo đạo giác ngộ. Trong kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật, câu đó là Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai ngộ cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật’. Như vậy kinh Pháp Hoa chính là kinh nêu rõ mục đích ra đời của Chư Phật, mà dưới đây là đại cương của kinh. Thiên kinh vạn quyển Phật nói ra cùng với những pháp môn tu hành trong đó như quán sổ tức, quán bất tịnh, tham thiền, trì trai giới, an cư kiết hạ… đều chỉ đưa đến mục đích làm Phật. Có kinh nói rộng, có kinh nói đơn giản. Nhưng tựu trung, chẳng có pháp môn nào dễ dàng để tu thành Phật. Pháp môn nào cũng khó. Quán bất tịnh phải quán thật sâu xa, kỹ càng chứ không phải quán qua loa mà thành được. Sổ tức cũng không phải dễ, không cứ chỉ thở vô thở ra vài hơi là xong. Tham thiền, trì trai giới, các môn tu khác cũng đều khó như vậy cả. Vậy mà theo kinh Pháp Hoa, thì việc thành Phật quả dễ. Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, Nhất xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo’. Nếu người tâm tán loạn, đi vào trong tháp Phật, niệm một lần Mô Phật’, cũng đủ thành Phật đạo. Hoặc chỉ chắp tay hay cúi đầu trước tượng Phật, cho đến trẻ con chơi cát đắp thành tháp Phật mà cũng thành Phật được. Một quyển kinh ại Thừa cao nhất là Pháp Hoa, rốt cuộc dạy một chuyện dễ dàng như vậy, thì hà tất phải tham thiền, giữ giới, kiết hạ an cư ? Cho nên ngài Thường Bất Khinh đã chọn một cách để làm Phật. Ngài không sổ tức, không nhập định, không quét nhà, làm đường, chỉ đi gặp ai cũng nói câu Tôi không dám khinh Ngài, vì Ngài hành Bồ Tát đạo, Ngài sẽ thành Phật’. Ngài Thường Bất Khinh là một vị Bồ Tát Tỳ Kheo, sống giữa chúng Tỳ Kheo tăng thượng mạn có thế lực dưới thời tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương trong quá khứ. Ngài chỉ làm mỗi một việc là đến nơi mọi người, chắp tay cung kính xướng câu Tôi không dám khinh Ngài, vì Ngài sẽ thành Phật’. Trong việc làm đơn giản đó, tuy nhiên, cần phải có một lòng tin mãnh liệt rằng Tất cả chúng sanh đều là Phật’ thì mới làm nổi. Lòng tin ấy nếu không có trí tuệ của Bồ Tát thì không thể có được. ó là Bát Nhã ba la mật; và Ngài làm việc ấy không phải một hai lần mà làm thường xuyên, không phải đối với một hai người mà đối với tất cả mọi người, đó là Tinh Tấn Ba la mật. Trong khi Ngài làm như vậy, có người nghe thì hoan hỷ, vì cho là một lời chúc tụng giá trị nhất, chúc làm vua cũng không bằng; nhưng cũng có người dửng dưng vì không hiểu Ngài muốn nói gì, rồi cũng có người nổi sân vì cho Ngài chọc tức mình, nên xua đuổi đánh đập. Vậy mà Ngài vẫn giữ một thái độ bình thản đối với cả ba hạng người ấy, đó là Nhẫn Nhục Ba la mật. Và mỗi khi đối trước ai nói lên câu Tôi không dám khinh người…’ là nói với một lòng kính cẩn tập chú chứ không phải cuồng loạn hời hợt, hình thức đó là Thiền định Ba la mật. Như vậy, ta thấy một việc làm ngó đơn giản song gom đủ ý nghĩa của Bồ Tát hạnh và sức mạnh của một lòng tin kiên cố Tin mình là Phật và tất cả chúng sanh đều là Phật. Chúng ta đã có ai dám tự tin mình là Phật chưa? Huống nữa là tin người khác là Phật ? Thật khó tin mà tin nổi một kẻ vừa nói láo, vừa mắng chửi cộc cằn kia là Phật được. Phải như một vị đại lương y, đứng trước một con bịnh có những triệu chứng ghê gớm Thổ tả, mê sảng, sốt mặt đỏ gay… Nhưng qua sự bắt mạch thấy rõ ba bộ thốn, quan, xích, đều đi hữu lực mà biết được tánh mạng người đó chưa hề gì, và bảo con bịnh Ông không chết’. Sự quả quyết đó của lương y tạo cho người bịnh một lòng tin tưởng, một sức mạnh, một niềm hy vọng phấn khởi để vươn lên mà sống. Ngài Thường Bất Khinh nói với chúng sanh Các Ngài là Phật’, cũng trong ý nghĩa đó. Nếu chúng sanh vì tự thấy mình là chúng sanh, cam phận chúng sanh, nên cứ mặc tình trầm luân tạo nghiệp. Vì đã là chúng sanh vô phương cứu chữa, thì tội chi mà không trầm luân, tội chi mà không lăn lóc trụy lạc Thân lươn bao quản lấm đầu ? đã làm thân con lươn thì có ngại gì cái đầu bị lấm bùn lầy đã thấy mình thấp thỏi tầm thường thì không còn việc ác gì không làm, vì con người như thế, không tin rằng còn chút phẩm giá nào để vươn lên toàn thiện toàn giác được. Bây giờ, khi nghe nói rằng mình là Phật, có cơ trở thành bậc toàn thiện toàn giác thì trừ phi những người không muốn, ai cũng phải mừng rỡ, và nhờ đó các thói xấu cống cao ngã mạn, nhỏ nhen, bần tiện… khó mà nổi lên được. Có bao giờ một người, khi tự tin mình là Phật, mà lại cứ nhắm mắt sống theo thói ăn cắp, nói láo, kiêu mạn, tật đố, sân si ? Cho nên tự tin mình là Phật thì ngay khi đó mình là Phật. Quán kinh dạy Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật’. Tâm đó là Phật, tâm đó làm Phật, không tâm nào khác hơn. Ngài Thường Bất Khinh thấu hiểu lý ấy trong Kinh Pháp Hoa, nên Ngài chỉ hành Pháp Hoa mỗi một cái hạnh bất khinh’ ấy, tức là không khinh người và không tự khinh mình. Lòng tin Tất cả chúng sanh là Phật’ nó dễ kết hợp mọi người lại với nhau như nước tìm đến nước. Nước với lửa mới chống trái nhau, còn nước với nước thì dù có nước ở bất cứ nơi nào, sông, ngòi, ao, hồ, mương, lạch, dù trong đục, sạch dơ, đều tìm về biển. Tất cả mọi người có được lòng tin mình là Phật cũng thế, cũng tìm về với nhau trong biển cả ại Giác. ó là điểm chính, là cốt tủy, cho nên trong kinh Pháp Hoa, Phật thọ ký cho tất cả hàng Thanh Văn đều thành Phật. Trước đó đối với hàng Thanh Văn, Phật chỉ dạy pháp Tứ ế, 12 nhân duyên. ến hội Pháp Hoa, Phật mới thọ ký Thanh Văn thành Phật. ây là điểm đặc biệt của Pháp Hoa hội. Mặc dù có nhiều kinh điển khác đều nói đến Phật tánh, nói tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, nói đến trí tuệ và mục đích ra đời của Chư Phật, nhưng chỉ nói chung chung. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Phật chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát, còn đối với hàng Thanh Văn thì dạy cho các pháp tu để thành Bích Chi La Hán, chứng nhập Niết Bàn. Những người này tu theo các pháp môn Phật dạy, được chứng quả Thanh Văn liền cho rằng đã viên mãn, nên đến hội Pháp Hoa khi Phật sắp sửa nói, Ngài lại muốn thôi, chính vì nghĩ đến hạng tăng thượng mạn này Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngã pháp diệu nan lư, chư tăng thượng mạn giả, văn tất bất kính tín.’ Thôi thôi chẳng nên nói, Pháp ta vi diệu khó lường, những kẻ tăng thượng mạn nghe sẽ không kính tin. Ngài Xá Lợi Phất phải cầu xin năn nỉ đến lần thứ ba, Phật mới dạy rằng Ông đã ba phen cầu thỉnh, chẳng lẽ Ta không nói’. Khi Ngài sắp sửa nói thì năm ngàn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nam nữ cư sĩ đảnh lễ Phật mà lui ra, vì cho rằng tất cả pháp Phật dạy, mình đã tu, đã đắc cả rồi còn gì để nói, còn gì để nghe nữa ? Sau khi những người này bỏ đi, Phật dạy rằng Lui đi cũng tốt’ thối diệc giai hỷ. Câu nói của Phật nghe tuồng như phũ phàng, tuồng như đối với năm ngàn người này lòng từ bi của Ngài không phổ cập đến. Trong khi ở hội Hoa Nghiêm, chỉ có hàng Bồ Tát lãnh hội được ý chỉ của Phật dạy, còn hàng Thanh Văn ngồi đó mà như đui như điếc; vậy mà Phật không đuổi ra, họ cũng không bỏ ra đi. Ở hội Pháp Hoa thì Phật nói Lui ra cũng tốt’ có phải phũ phàng xua đuổi không ? Không phải, bởi vì ở hội Hoa Nghiêm những vị Thanh Văn tuy không hiểu mà không có lòng tăng thượng mạn, không cho mình đã chứng đắc, nên cứ ngồi đó. Ngồi mà không khinh, không khiếp, không sợ. Còn ở hội Pháp Hoa, những vị Thanh Văn này lại tăng thượng mạn, chưa chứng đắc viên mãn mà tự cho đã chứng đắc viên mãn. Có tâm tăng thượng mạn như thế, mà cứ ngồi lì ở đó, hay nếu Phật bảo cứ ngồi đó đi’ thì thật là không ích gì cho chính bản thân họ mà còn gây chướng ngại cho những người nghe pháp. Và sở dĩ những người này tăng thượng mạn là vì họ chưa tin nổi rằng Tất cả chúng sanh đều là Phật’, họ chỉ tin rằng mình đã đắc quả A La Hán và chẳng những không tin chúng sanh là Phật, họ còn không tin nổi chính mình là Phật’, do đó mà họ đã bỏ ra đi, và Phật dạy rằng họ lui ra cũng tốt. Thành thử kinh Pháp Hoa có nghĩa Hội tam quy nhất, thọ ký thành Phật’. Trước kinh Pháp Hoa, Phật dạy nhiều pháp môn, mỗi pháp môn chứng một quả vị khác nhau như tu Tứ đế pháp đắc quả A La Hán, tu 12 nhân duyên đắc Bích Chi, tu Lục độ làm Bồ Tát… đến hội Pháp Hoa, khi sắp nhập Niết Bàn, Phật mới dạy những gì mà trước đó ngài chưa dạy được, đó là những pháp môn mà ngài dạy bấy lâu chỉ là những phương tiện để bước lên Nhất thừa. Trước kia Thanh Văn đã cho đó là pháp thật, quả thật, nên chăm chỉ tu, chứng và chấp thủ các quả vị đã chứng. Bây giờ Phật mới nói rằng Nhị thừa, Tam thừa đều không thật đều là phương tiện chỉ có Nhất thừa mới là thật, mới là cứu kính. Ngài Thiên Thai Trí Giả cho đó là khai quyền hiển thật, khai cận hiển viễn’ mở phương tiện ba thừa để hiển bày cái chân thật là Nhất thừa Phật đạo. Khai quyền’ là chỉ rõ tất cả các pháp môn Phật nói trước kinh Pháp Hoa đều chỉ là phương tiện để đi đến giáo lý thật của Pháp Hoa là Tất cả chúng sanh đều là Phật’. iều mà mười phương chư Phật đều làm xuất hiện ra ở đời để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến’. iều này, đức Thích Ca Bổn Sư cũng không làm khác với chư Phật 10 phương. Một mặt vì tất cả chúng sanh đều là Phật, một mặt vì bản hoài của tất cả chư Phật ra đời vì một mục đích duy nhất là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, một mặt vì trí tuệ chư Phật thậm thâm đủ cả hai mặt căn bản trí và quyền trí, thấu hiểu cùng tận được thật tướng các pháp nên mới khai quyền hiển thật được. Thật tướng đó là 10 như’ như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạc cứu cách. Mười như này là tướng sai biệt của thật tướng các pháp. Ngài Thiên Thai lấy mười như’ đó phối hợp, với mười giới’ gọi là thập pháp giới với năm ấm, hữu tình thế gian và khí thế gian mà thành bách như thiên như… Thiên Thai tông có danh từ Tam thiên nhất niệm; nhất niệm tam thiên’ là để chỉ cái lý chân thật mà chư Phật đồng chứng như nhau, đó là ba điểm sau đây Thật trí, quyền trí chư Phật đồng nhất. Phật tánh chúng sanh cùng đồng nhất. Bản hoài chư Phật cũng đồng nhất, nên Phật chỉ dạy mỗi một đạo lý duy nhất, đó là đạo Nhất thừa. Nhưng trước khi khai thị để đưa chúng sanh về Nhất thừa, Phật phải nói loanh quanh gọi là phương tiện, để đến Pháp Hoa Ngài mới nói rõ Bản hoài của chư Phật. Do đó là kinh Pháp Hoa cao điểm của giáo lý Phật nên mới là Diệu Pháp. Ngài Thiên Thai chia hai thứ diệu’ là tương đối diệu và tuyệt đối diệu. Những pháp môn Phật dạy trước đây tuy diệu nhưng chưa tuyệt đối, như khi phân thành Thanh văn, Duyên giác thừa và ại thừa, thì ại thừa là diệu, nhưng chỉ diệu tương đối với Thanh văn, Duyên giác, chưa phải diệu thật sự tuyệt đối. ến hội Pháp Hoa thì không còn đối đãi với Thanh văn, Duyên giác mà gồm chung tam thừa vào nhất thừa, nên mới thật là diệu pháp. Pháp Hoa nói thật tướng các pháp, thật tướng đó là Tất cả pháp đều là Phật Pháp, tướng tánh bất nhị. Thế gian tướng thường trụ’. Tất cả pháp, bởi thế, đều là diệu pháp nhứt sắc nhứt hương vô phi trung đạo. Diệu pháp đó ví như hoa sen với những điểm 1. Sinh ra trong bùn mà không nhiễm bùn. 2. Khi hoa nở thì tỏa hương thanh khiết nhẹ nhàng. Nghĩa là những pháp mà Phật nói ở trong Diệu pháp Liên hoa cũng phát xuất từ tam thừa pháp, ví như hoa sen vẫn sinh từ bùn. Cái hoa diệu pháp từ trước bị vùi lấp trong bùn kiến chấp của tam thừa, đến hội Pháp Hoa thì hoa sen từ bùn nở ra mà không dính bùn, lại tỏa hương vi diệu. ạo Phật quả là đạo hoa sen. Phật ra đời đi bảy bước cũng đi trên bảy hoa sen có nghĩa Sáu hoa trước chỉ cho sáu đức Phật quá khứ là Tì Bà Thi, Thi Khí, Hoa thứ bảy là Phật Thích Ca vậy. Cũng có nghĩa khi mới phát tâm đức Thích Ca đem 7 hoa sen dâng cúng đức Phật Nhiên ăng, nên khi Ngài sắp thành Phật có 7 hoa sen đỡ chân ngài. Khi thành đạo, Ngài quan sát căn cơ chúng sanh qua hình ảnh những hoa sen trong hồ Có hoa đã vươn lên khỏi mặt nước, có hoa còn chìm, có hoa chưa ra khỏi bùn, nhưng tất cả đều là hoa sen và đều lên khỏi mặt nước tỏa hương khi gặp ánh sáng mặt trời. Chúng sanh cũng vậy, ở trong đống bùn phiền não mà cũng không dính bùn, vì chưa ra khỏi phiền não mà gọi là chúng sanh, đến khi gặp được mặt trời diệu pháp của Phật soi đến thì cũng đều nở. Ngài Huyền Trang khi đi thỉnh kinh, trong lúc chờ đợi cấp giấy đi đường, một đêm mộng thấy một ngọn linh sơn giữa biển. Ngài nhảy xuống biển liền có hoa sen đỡ đưa Ngài lên núi. Và trước khi thị tịch, Ngài cũng thấy hoa sen. Nhưng đó là hoa sen trong nước, còn thứ sen trong lửa như lời Thiền sư Ngộ Ấn Việt Nam Diệu tánh hư vô bất khả phân Hư vô tâm ngộ đắc hà nan Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận Liên phát lô trung thấp vị căn. Hay của ộng Sơn Lương Giới, Sư Tổ phái Tào ộng Lưỡng kiếm giao phong bất tu tị Hảo thủ do như hỏa lý liên Ám chỉ rằng ở trong cái lò lửa là thân ngũ uẩn uế trược đầy lửa phiền não của chúng sanh, hoa sen Phật tính vẫn tươi như thường. Chân Nguyên Thiền Sư Việt Nam cũng có câu “Trần trần sát sát Như Lai Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen Hoa là bản tánh trạm viên Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng Hậu học đã biết hay chăng Tâm hoa ứng nguyện nói năng mọi lời.” Do đó mà kinh Pháp Hoa lấy dụ hoa sen. Trên đây là ý nghĩa tóm tắt kinh. Bây giờ để bổ túc, sẽ nói qua về bố cục kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bố cục kinh pháp hoa Kinh này là một kinh dịch ra Hoa văn rất sớm, vào năm 286 TL do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch đề là Chánh Pháp Hoa Kinh 10 quyển. Trước đó không lâu vào năm 256 TL tại Giao Châu có Ngài Chi Cương Lương cũng dịch lấy tên là Pháp Hoa Tam Muội 6 quyển, nhưng hiện trong Tạng chỉ có một quyển Pháp Hoa Tam Muội do Trí Nghiêm đời Lưu Tống dịch. ời ao Tần, Ngài La Thập dịch vào năm 404 lấy tên Diệu Pháp Liên Hoa 7 quyển. ời Tùy năm 601 TL hai Ngài Xà Na và Cấp a cũng dịch lấy tên là Thiên Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa 7 quyển. Bộ Pháp Hoa thường được nghiên cứu học hỏi là bộ do Ngài La Thập dịch 7 quyển 28 phẩm. Thiên Thai tông chọn kinh này làm bản kinh chính yếu để lập tông, và chia 28 phẩm ra làm hai phần Phần đầu gồm 14 phẩm trước, gọi là tích môn tích hóa, gọi tắt là tích môn, phần sau gồm 14 phẩm sau, gọi là bản môn bản hóa, gọi tắt là bản môn môn dạy không phải là cửa mà là phương diện. Sự hóa độ của đức Phật có dấu tích, biểu hiện ra giữa trần gian cho chúng ta nghe được thấy được rõ ràng, thì gọi là tích môn. Tích phải có gốc từ đó nó phát sanh, cái gốc đó là bản môn. ức Phật Thích Ca hiện ra nơi đời tất phải từ một đức Phật Vô Lượng Thọ, và giáo pháp Ngài giảng nói cũng là pháp Ngài đã chứng từ vô lượng kiếp, gọi là bản môn. Như ánh trăng chiếu trên sông hồ, khi có khi không, khi còn khi mất, do nước có đầy vơi trong đục mà ra, nhưng trăng trên trời, thì luôn luôn có. Bản môn tức thọ mạng của Phật và giáo pháp của Ngài, sự giáo hóa của Ngài là vĩnh cửu, song tích môn thời Phật tùy giai đoạn, căn cơ, nghiệp lực chúng sanh mà có nơi hiện nơi không. Nói thế để biết, sự nhập Niết Bàn của Phật tại rừng Sa La là sự Niết Bàn của Tích môn, không phải của bản môn, đó là sự vắng bóng của trăng trong nước. Sự hiện sinh của Phật ở vườn Lâm Tỳ Ni cũng thế, chỉ là sự hiện diện của tích môn. Còn ức Phật của Bản Môn thì không sinh không diệt, như trăng trên trời. Chúng hội trong tích môn là chúng hội ở thế giới ta bà uế độ này, tại Kỳ Viên Tịnh Xá; còn chúng hội trong bản môn, ngay từ phẩm 11 trở đi, là chúng hội siêu thời gian không gian, không phải như ở trong tích môn có người ở ta bà nghe kinh và Kỳ Viên là nơi chốn. Nay hãy đi vào chi tiết. Tích môn 14 phẩm trước. Trong phần tích môn, thì phẩm Tựa đầu tiên bao gồm nhiều ý nghĩa tổng quát. Từ phẩm thứ 2 là phẩm Phương tiện đến phẩm thứ 9 Thọ Ký, đặc biệt là nói về Tích môn, mà phẩm Phương tiện là chủ yếu, còn 7 phẩm kế tiếp kia chỉ là diễn rộng đạo lý ở phẩm này cho hàng căn cơ chậm hiểu. Thiên Thai chia phần tích môn ra Tam châu Thuyết pháp châu có nghĩa là toàn vẹn. Trong việc khai quyền hiển thật, thì phẩm Phương tiện là pháp thuyết châu chỉ có hàng Thanh văn thượng căn mới hiểu, như Ngài Xá Lợi Phất, được Phật thọ ký ngay. Lần thứ hai, Phật phải giải thích bằng ba thí dụ gọi là dụ thuyết châu nghĩa là thay vì nói thẳng điều cần nói như ở phẩm Phương tiện, ở đây Ngài dùng ba thí dụ là thí dụ ba cõi như nhà lửa, đứa con khốn cùng và cây thuốc, để cho hàng trung căn tín giải và được thọ ký trong lần này như bốn vị Tu Bồ ề, Mục Kiền Liên, Ca Diếp và Phú Lâu Na. Ở phần dụ thuyết châu này gồm bốn phẩm là phẩm Thí dụ, Tín giải, Dược thảo, Thọ ký. Lần thứ ba gọi là Nhân duyên thuyết châu gồm phẩm Hóa Thành Dụ, Ngũ bách đệ tử, Thụ học vô học ký. Ở đây Phật nhắc lại cho các đệ tử Thanh Văn nhớ lại nhân tu của họ trong quá khứ. Họ đã từng gặp Phật, phát tâm ại thừa mà nay bị quên đi, nên Phật nhắc cho họ nhớ bản nguyện để phục hồi cái tâm hướng ại thừa của họ. Lần này rất đông người ngộ giải và được thọ ký. Tuy đề phẩm là Ngũ bách thọ ký’ nhưng kỳ thực là 1250 vị, nhưng năm trăm vị này danh tiếng mà thôi. Lần này, chẳng những hàng vô học La Hán được thọ ký, mà cả hạng hữu học cũng được. ây là hàng hạ căn đắc ký. ối tượng thuyết pháp Phật nhắm đến là hàng Thanh văn hồi tiểu hướng đại, khiến họ đi vào Nhất thừa. Nói rộng ra, là thọ ký cho tất cả chúng sanh. Có hai lối thọ ký biệt thọ ký và thông thọ ký. Biệt thọ ký là thọ ký từng người, từng nhóm người sẽ thành Phật ở thế giới tên gì, Phật hiệu gì, Hàng Thanh văn được thọ ký trong hội Pháp Hoa là biệt thọ ký. Nhưng về sau, có những thọ ký chung cho những người tu sau khi Phật đã Niết Bàn. Bởi vì trong một hội chúng nghe pháp, bao giờ cũng có bốn hạng người là Chúng khải thỉnh, những Ngài thưa thỉnh để Phật nói pháp cho mọi người khác nghe. ó là những vị Bồ Tát đã ngộ, nhưng phương tiện thưa hỏi vì chúng sinh. Hoặc là những người đương cơ’ mà lợi căn biết đặt câu hỏi. Chúng đương cơ, đối tượng chính của buổi thuyết pháp. Phật nhắm ngay hạng này mà nói, vì hạng này có thể lãnh hội lời Phật dạy. Trong hội Pháp Hoa, chúng đương cơ là hàng Thanh văn hồi tiểu hướng đại, được Phật dùng phương tiện dắt dẫn lên Nhất thừa. Chúng tán dương, là những Bồ Tát đã được thọ ký, đã nghe kinh này rồi, nhưng vẫn ngồi đó để tán dương Phật, Pháp, tán dương sự nói pháp và người nghe pháp. Chúng kết duyên, lại có hạng người nghe mười câu mà chỉ hiểu một, nghe sau quên trước, nhưng đó vẫn là một cách kết duyên để sau này được hiểu Phật và làm Phật vậy. Nói thế để hiểu rằng, chúng đương cơ trong kinh Pháp Hoa là hạng người nào, để hiểu được tinh thần kinh. Trên đây là tóm tắt ý nghĩa chín phẩm trước. Từ phẩm mười Pháp Sư đến phẩm mười bốn An lạc hạnh là bổ túc cho tám phẩm trước là những phẩm chính của tích môn tích hóa. Trong phẩm mười này Phật thọ ký chung tất cả những ai có nghe kinh niệm Phật. Vì vậy đạo lý Pháp Hoa là một đạo lý cần được tuyên dương hoằng hóa, và người nói kinh này cần thành tựu ba việc để sự nói kinh được viên mãn, đó là nhập Như Lai thất, trước Như Lai y, tọa Như Lai tòa vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Phẩm Hiện bảo tháp thứ mười một, một bảo tháp của Phật a Bảo từ dưới đất vọt lên khen ngợi. Ý nghĩa ở đây là Phật vốn bất diệt. ức Phật a Bảo diệt mà bất diệt, để hiện thị ức Thích Ca sanh mà không sanh. Hai Ngài ngồi chung một tòa, bởi vì cùng bất sanh bất diệt như nhau. Lại nữa, a Bảo còn là biểu thị Phật tánh sẵn có trong đất phiền não khi gặp được kinh Pháp Hoa thì hiển lộ. Phẩm ề Bà ạt a thứ mười hai, trong những kinh khác, ề Bà là một người tạo đủ các tội lỗi, nghiệp chướng nặng nề. Nhưng đến kinh này, thì phật cho biết vô lượng kiếp về trước, ề Bà đã là thiện tri thức giúp Ngài thành Phật qua việc ông đã nói lại kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chứng tỏ năng lực kinh này đã làm cho Phật thành Phật và cũng làm cho một người ác như ề Bà mà cũng thành thiện tri thức được nhờ nói lại kinh Pháp Hoa. Lại còn có chuyện Long nữ thành Phật, làm cho Ngài Xá Lợi Phất phải ngạc nhiên đã làm súc sinh, lại mang thân nữ, ở đời coi như vậy là hết chỗ đứng, vậy mà vẫn thành Phật được, chứng tỏ những chúng sinh nào tin được kinh này thì đều thành Phật, và chứng đắc đạo lý Phật tính bình đẳng của Pháp Hoa là không phân biệt nam nữ trời rồng, người hay súc sinh. Thật là một sự bình đẳng tuyệt đối. Phẩm An lạc thứ mười bốn, muốn nói kinh Pháp Hoa ở đời ngũ trược khỏi bị chướng ngại, phải an trụ bốn hạnh là không tích hạnh, ly kiêu mạn hạnh, ly tật đố hạnh và từ bi hạnh. Hay thân an lạc hạnh, khẩu an lạc hạnh, ý an lạc hạnh, và an lạc thệ nguyện. Bản môn bản hóa Từ phẩm 15 cho đến hết. Phẩm Tùng ịa Dõng Xuất thứ 15, từ phẩm này trở đi toàn nói đến những cảnh giới vượt ngoài tầm hiểu biết thông thường của người phàm. Từ dưới đất trồi lên vô số Bồ Tát, như ở phẩm 11 Tháp ức a Bảo cũng từ đất vọt lên, phẩm này cùng với phẩm 16 là Phẩm Như Lai Thọ Lượng Cả hai phẩm 15, 16 này là phần chính của Bản môn. Phật nói Ta vốn ở trong Ta Bà Thế Giới này từ vô lượng kiếp chứ không phải mới sinh’. Bản môn này là gốc, từ đó mà có ra tích môn, là sự đản sinh của Phật tại Lâm Tỳ Ni vậy. Tiếp đến, Phật phân biệt công đức của Người trì kinh ở phẩm Phân Biệt Công ức. Phẩm Tùy Hỷ Công ức là Tùy hỷ với người nghe kinh, khuyến khích người khác nghe Pháp Hoa mặc dù mình không nghe cũng được có công đức thuộc hạ phẩm. Phẩm Pháp Sư Công ức thứ 19 là chỉ cho trung phẩm công đức nhờ nghe, đọc tụng diễn nói kinh này. Phẩm Thường Bất Khinh thứ 20, là nói đến Thượng phẩm công đức của Ngài Thường Bất Khinh, tức công đức hành hạnh Pháp Hoa, như đã nói trên. Nói xong phẩm này, Phật hiện thần lực phẩm 21 để chứng minh thêm công đức đó, và Chúc lụy phẩm 22 rằng kinh này nên được lưu truyền rộng rãi. Từ phẩm 23 đến cuối có thể gọi là phần lưu thông, sự hoằng kinh Pháp Hoa do những vị Bồ Tát, hoằng kinh bằng những khổ hạnh của mình như phẩm Dược Vương, Diệu Âm, hoằng kinh do sự cứu khổ nạn cho chúng sinh như phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn hay bằng thần chú lực hộ trì cho người đọc tụng diễn nói Pháp Hoa như phẩm à La Ni 26… Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương phẩm 27 kể một ông vua tà kiến, nhưng có bà vợ và hai con trì kinh Pháp Hoa đã tìm đủ cách để cải hóa cha, cuối cùng vua chịu đi nghe kinh Pháp Hoa mà trở thành Bồ Tát. ây là nói lúc hộ trì của kinh, có năng lực cải tà quy chánh. Phẩm 28 là phẩm Phổ Hiền, khuyến khích hoằng kinh. Ngài Trí Khải cho 14 phẩm sau này là bản môn bản hóa, nhưng chủ yếu bản môn chính thức là chỉ có 2 phẩm 15 và 16. Vị trí kinh Pháp hoa Theo sự phân giáo của Ngài Thiên Thai và Cát Tạng Thiên Thai tông và Tam Luận tông có 5 thời kỳ thuyết pháp của Phật là Hoa Nghiêm, A Hàm, Bát Nhã, Phương ẳng và Pháp Hoa, Niết Bàn. Trong đó lại chia ra ba giai đoạn chuyển pháp luân tam pháp luân là Căn bản pháp luân Kinh Hoa Nghiêm, khi Phật nói kinh này chỉ một số rất ít người hiểu, nên Ngài mới tùy phương tiện nói ra ba thừa đó là Chi mạt pháp luân Trước hết là thời A Hàm, nhưng vì hàng Thanh văn thiên chấp kinh này, nên Phật lại nói hai thời giáo kế tiếp là Bát Nhã và Phương ẳng để đưa lên ại thừa. Nhưng ại thừa này chưa rốt ráo, vì mới chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát thành Phật, chưa thọ ký cho Thanh Văn. Do đó giáo pháp ở các thời này vẫn còn là chi mạt cành ngọn. ến giai đoạn thứ ba Nhiếp mạt quy bổn Pháp luân Mới là pháp luân rốt ráo của Phật, đó là thời giáo Pháp Hoa gồm hết những chi mạt về căn bản. Mở đầu là Hoa Nghiêm, kết thúc là Pháp Hoa, đấy là thủy chung của một thời giáo hóa mang cùng một ý nghĩa nhưng hai phương pháp khác nhau Hoa Nghiêm thì nói thẳng nên chỉ có một số Bồ Tát giải ngộ được mà thôi, còn Pháp Hoa thì dùng nhiều cách nói để đưa người đến giác ngộ, tùy căn cơ chúng sanh Phật đã nói những kinh khác, cho đến Pháp Hoa thì Phật gồm tất cả giáo lý 45 năm đã nói. Vì tính cách quan trọng đó của kinh này mà Ngài Trí Khải đã căn cứ để lập ra Thiên Thai tông rất thịnh hành. Khi truyền qua Nhật Bổn, đến năm 1222 có sư Nhật Liên dựa vào Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Ngài Trí Giả mà lập ra Nhật Liên Tông đến nay vẫn thịnh hành. ấy là chưa kể trước đó 6,7 thế kỷ, Thánh ức Thái Tử Shotaku-taishi người có công lớn du nhập và truyền bá ạo Phật ở Nhật, ông nhiếp chánh những năm 593-622, sau khi chú giải kinh Duy Ma, Thắng Man và Pháp Hoa, ông đã dựa vào đó để soạn thảo và công bố bản Hiến Pháp 17 điều đầu tiên của Nhật, mà tinh thần của nó đến nay vẫn còn giá trị. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay Kinh Pháp Hoa là bộ kinh đại thừa gồm bảy quyển, tổng cộng là hai mươi tám phẩm, suốt hơn sáu vạn lời, nghĩa lý sâu xa, kinh văn rộng lớn, chứa đựng tâm nguyện và phương tiện huyền diệu ngời sáng của Phật và Bồ Tát. Tâm nguyện của Phật là tâm nguyện khắp độ chúng sanh đạt thành đạo quả giác ngộ. Bởi thế nên ngay quyển đầu của kinh về phẩm phương tiện đã nói “Phật ra đời là vì một nhơn duyên lớn duy nhất là khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”. Thế nghĩa là Phật rộng mở phương tiện pháp môn, chỉ bày chơn tâm Phật tánh để chúng sanh tin tưởng khả năng thánh thiện của mình mà tiến tu đến Phật quả. Phương tiện của Phật là phương tiện huyền diệu được sanh trưởng và dinh dưỡng bởi trí huệ từ bi hỷ xả lợi tha có khả năng đưa tất cả chúng sanh đồng chứng nhất thừa Phật quả. Kinh Pháp Diệt Tận. Kinh Lăng Nghiêm. Kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Niệm Phật Ba La Mật. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Cách tụng kinh tại nhà. Cách niệm Phật tại nhà. * Đức Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Ta là Phật đã thành. Chúng sanh là Phật sẽ thành, nếu chúng sanh tinh tấn nỗ lực tu hành thì cũng sẽ thành Phật như ta vậy. Nhưng chúng sanh đắm chìm trong ngũ dục lạc, nên tạo nhiều tội lỗi để rồi hiện thành căn tánh cao thấp, nghiệp duyên nặng nhẹ khác nhau. Đức Phật lại phải từ đó mà lập ra có muôn ngàn phương tiện để hóa độ. Nghĩa là từ nhứt thượng thừa mà đức Phật đã phải phương tiện huyền khai làm thành ba thừa để rồi sau đó, khi căn tánh chúng sanh thuần thục ngài lại dần dần đưa lên nhứt thừa vô- thượng chánh-đẳng chánh-giác. Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh, từ tam thừa Thanh-văn Duyên giác và Bồ-Tát đến quả vị nhứt thừa vô thượng Phật quả. Nội dung kinh Pháp-Hoa cho ta thấy không phương tiện độ sanh nào mà không có, không cửa pháp môn giải thoát rốt ráo nào mà không mở, không cảnh giới Phật nào mầu nhiệm thiện duyên thâm mật với chúng sanh cõi ta bà này mà không ảnh hiện, không hạnh nguyện giáo hóa độ sanh nào của Phật và Bồ-Tát mà không thể đạt ba la mật. Thật là một bộ kinh khế hợp cho đủ mọi trình độ căn tánh nghiệp duyên của chúng sanh. * Vì thế xưa nay kinh Pháp Hoa đã được không biết bao nhà Phật học huyên bác chú thích sớ giải làm cho kinh Pháp-Hoa rạng rỡ từ ngàn năm này đến ngàn năm khác và phổ cập nhân gian. Đến nỗi nghĩa lý của kinh Pháp Hoa quá ư vi diệu tuyệt vời, kinh bản được đời đời ấn hành phổ biến uy thế tạo thành một tôn phái với danh xưng là Pháp-Hoa-Tông hay Thiên-Thai-Tông, một tôn phái có ảnh hưởng lớn ở Nhật Bản và Trung Hoa do Trí Giả Đại Sư thành lập. Trong thời thế sự cuồng quây, đạo tâm ngày một suy vi, phong hóa niềm tin lay chuyển đến tận gốc rễ như thời này đây, để cho mọi người còn chút phước duyên đang bền bồng trên bể đời có 8 thuyền nương tựa, có đất phì nhiêu của bến bờ để gieo giống Bồ-đề, nên Phật Học Viện Quốc Tế nguyện in lại kinh Pháp-Hoa này ngõ hầu làm thuyền bát nhã, làm ruộng phước phì nhiêu, làm hải đăng và bến đổ cho khắp cả mọi kiếp thuyền đời trở thành những thiện hữu Bồ-đề kết duyên cùng Phật đạo Chánh-đẳng Chánh-giác. Khắp nguyện mười phương bạn lành gần xa mở rộng lòng ra phát tâm Bồ-đề thọ trì và ấn tống kinh Pháp-Hoa này để tạo cơ hội sớm ngộ nhập tri kiến Phật, ngõ hầu thăng hoa đời sống đạo quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.HT. Thích Đức Niệm Nghi thức Sám Hối trước khi tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối, sám hối tức là làm cho 3 nghiệp thanh tịnh. Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Chư Phật. 1 lạy Nam mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Tôn Pháp. 1 lạy Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng. 1 lạy Quỳ, tay cầm hương cúng dường phát nguyện Nguyện mây hương mầu này. Khắp cùng mười phương cõi, Cúng dường tất cả Phật. Tôn Pháp, các Bồ-Tát. Vô biên chúng Thanh-văn, Và cả thảy Thánh hiền. Duyên khởi đài sáng chói. Trùm đến vô biên cõi, Khắp xông các chúng sanh. Đều phát lòng Bồ-đề, Xa lìa những nghiệp vọng. Trọn nên đạo vô thượng. Xá 3 xá, cắm hương lên lư. Đứng thẳng chấp tay xướng Sắc thân Như-Lai đẹp. Trong đời không ai bằng Không sánh, chẳng nghĩ bàn Nên nay con đảnh lễ Sắc thân Phật vô tận Trí-huệ Phật cũng thế, Tất cả Pháp thường trụ Cho nên con về nương, Sức trí lớn nguyện lớn Khắp độ chúng quần sanh, Khiến bỏ thân nóng khổ Sanh kia nước mát vui. Con nay sạch ba nghiệp Quy y và lễ tán Nguyện cùng các chúng sanh Đồng sanh nước An-Lạc. Án phạ nhựt ra vật. 7 lần * Chí Tâm Đảnh Lễ Thường-tịch-quang tịnh độ A-Di-Đà Như-Lai Pháp-thân mầu thanh tịnh Khắp pháp giới chư Phật 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Thật báo trang nghiêm độ A-Di-Đà Như-Lai Thân tướng hải vi trần Khắp pháp giới chư Phật. 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Phương tiện thánh cư độ A-Di-Đà Như-Lai Thân trang nghiêm giải thoát Khắp pháp giới chư Phật. 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Cõi An Lạc phương Tây A-Di-Đà Như-Lai Thân căn giới Đại-thừa Khắp pháp giới chư Phật. 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Cõi An Lạc phương Tây A-Di-Đà Như-Lai Thân hóa đến mười phương Khắp pháp giới chư Phật. 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Cõi An Lạc phương tây Giáo hạnh lý ba kinh Tột nói bày y chánh Khắp pháp giới Tôn Pháp. 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Cõi An Lạc phương tây Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Thân tử kim muôn ức Khắp pháp giới Bồ-Tát 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Cõi An Lạc phương tây Đại Thế-Chí Bồ-Tát Thân trí sáng vô biên Khắp pháp giới Bồ-Tát. 1 lạy Chí Tâm Đảnh Lễ Cõi An Lạc phương tây Thanh-tịnh đại-hải-chúng Thân hai nghiêm Phước, Trí Khắp pháp giới Thánh-chúng. 1 lạy Đứng chấp tay nguyện Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng nên qui mạng sám hối 1 lạy quỳ chấp tay sám hối. Chí Tâm Sám Hối Đệ tử… và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm, lại do sáu căn ba nghiệp quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô gián và tất cả các tội khác, nhiều vô lượng vô biên nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư không. Con từ vô thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. – Kinh rằng “Đức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-Tịch-Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật pháp”, mà con không rõ lại theo dòng vô minh, vì thế trong trí bồ-đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. * Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Đà Thế-Tôn mà pháp lồ sám hối làm cho đệ tử cùng pháp giới chúng sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh. Đệ tử sám hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm Tịnh độ khắp với chúng sanh, đồng sanh về nước An-Dưỡng. Nguyện đức A-Di-Đà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tinh tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Đà cùng các Thánh chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ-Tát rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo. Đệ tử sám hối phát nguyện rồi quy mạng đảnh lễ Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Đà Như-Lai, biến-pháp-giới Tam-Bảo. 1 lạy Lạy xong, tiếp Nghi-Thức tụng kinh Kệ Tán Lư Hương Lò hương vừa nhen nhúm Pháp giới đã được xông Các Phật trong hải hội đều xa hay Theo chỗ kết mây lành Lòng thành mới ân cần Các Phật hiện toàn thân. Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma Ha-Tát. 3 lần Chân Ngôn Tịnh Pháp giới Án Lam 7 lần Trì chú này thì thân tâm, cảnh vật đều thanh tịnh Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị ta-bà-ha. 7 lần. Trì chú này thì hơi miệng trong sạch Chân Ngôn Tịnh Tam Nghiệp Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạt thuật độ hám 3 lần. Trì chú này thì thân, miệng, lòng đều trong sạch Chân Ngôn Phổ Cúng Dường Án nga nga nẵng, tam bà phạ, phiệt nhựt ra hồng. 3 lần. Trì chú này thì hoa hương cùng tiếng tụng niệm sẽ khắp cúng dường cả mười phương Văn Phát Nguyện Nam-mô Thập-phương Thường-trụ Tam-Bảo 3 lần Cúi lạy đấng Tam-giới Tôn, Quy mạng cùng mười phương Phật Tôi nay phát nguyện rộng Thọ trì kinh Pháp-Hoa Trên đền bốn ơn nặng Dưới cứu khổ tam đồ Nếu có kẻ thấy nghe Đều phát lòng Bồ-đề Hết một báo thân này Sanh qua cõi Cực-Lạc. Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật 3 lần Kệ Khai Kinh Pháp vi diệu rất sâu vô lượng Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp Tôi nay thấy nghe được thọ trì Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Phật Kệ Khen Ngợi Kinh Hơn sáu muôn lời, thành bảy cuốn Rộng chứa đựng vô biên nghĩa mầu Trong cổ nước cam lộ rịn nhuần Trong miệng chất đề hồ nhỏ mát Bên răng ngọc trắng tuôn xá-lợi Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang Dầu cho tạo tội hơn núi cả Chẳng nhọc Diệu-Pháp vài ba hàng. Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. 3 lần Kinh Diệu Pháp Liên Hoa KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập Hán Dịch Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Việt Dịch * QUYỂN THỨ NHẤT Đời Diêu-Tần, Ngài Tam-Tạng Pháp Sư Cưu-Ma-La-Thập phụng chiếu dịch. * Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Phẩm “Tựa” Thứ Nhất Tôi nghe như thế này Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-Xà Quật, nơi thành vương xá cùng chúng đại Tỳ kheo một vạn hai ngàn người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-La-Hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong dứt sự ràng buộc trong các cõi tâm được tự tại. Tên của các vị đó là A-Nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha Ca-Diếp, Ưu-Lâu-Tần Loa Ca-Diếp, Dà-Gia Ca-Diếp, Na-Đề Ca-Diếp, Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền Liên, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, A-Nậu Lâu-Đà, Kiếp-Tân-Na, Kiều-Phạm Ba Đề, Ly-Bà-Đa Tất-Lăng-Già-Bà-Ta-Bạc-Câu-La, Ma-Ha-Câu-Hy-La, Nan Đà, Tôn-Đà-La Nan-Đà, Phú-Lâu-Na, Di-Đa-La-Ni-Tử, Tu-Bồ-Đề, A-Nan, La-Hầu-La đó là những vị đại A-la-hán hàng tri thức của chúng. Lại có bậc hữu-học và vô-học hai ngàn người. Bà Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề cùng với quyến thuộc sáu ngàn người câu-hội. Mẹ của La-Hầu-La là bà Tỳ-kheo-ni Gia-Du-Đà-La cùng với quyến thuộc câu-hội. * Bậc đại Bồ-Tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, đều chứng được pháp Đà-la-ni, nhạo-thuyết biện tài, chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở các nơi đức Phật trồng các cội công-đức. Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật thông đạt đại-trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế-giới có thể độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Tên của các vị đó là Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đắc Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ-Tát, Bất-Hưu Tức Bồ-Tát, Bửu Chưởng Bồ-Tát, Dược-Vương Bồ-Tát, Dõng-thí Bồ-Tát. Bửu-Nguyệt Bồ-Tát, Nguyệt-Quang Bồ-Tát, Mãn-Nguyệt Bồ-Tát, Đại-Lực Bồ-Tát, Vô-Lượng Lực Bồ-Tát, Việt-Tam-Giới Bồ-Tát, Bạt-Đà Bà-La Bồ-Tát, Di-Lặc Bồ-Tát, Bửu-Tích Bồ-Tát, Đạo-Sư Bồ-Tát các vị đại Bồ-Tát như thế tám vạn người câu hội. *** Kinh Diệu Pháp Liên Hoa *** Lúc bấy giờ, Thích-Đề Hoàn-Nhơn cùng quyến thuộc hai vạn vị thiên-tử câu hội. Lại có Minh-Nguyệt thiên tử, Phổ-Hương thiên tử, Bửu-Quang thiên tử, bốn vị đại Thiên-Vương cùng với quyến-thuộc một vạn thiên-tử câu hội. Tự-Tại thiên-tử, Đại-Tự-Tại thiên-tử cùng với quyến thuộc ba vạn thiên-tử câu hội. Chủ cõi Ta-Bà Phạm-Thiên-Vương, Thi-Khí-Đại-Phạm, Quang-Minh Đại Phạm với quyến thuộc một vạn hai ngàn vị thiên-tử câu hội. Có tám vị Long-vương Nan-Đà Long vương, Bạt-Nan-Đà Long-vương, Sa Dà-La Long-vương, Hòa-Tu-Cát Long vương, Đức-Xoa-Ca Long-vương, A Na-Bà-Đạt-Đa Long-vương, Ma-Na-Tư Long-vương, Ưu-Bát-La Long-vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội. Có bốn vị Khẩn-Na-La vương, Pháp Khẩn-Na-La vương, Diệu-Pháp Khẩn Na-La vương, Đại-Pháp Khẩn-Na-La vương, Trì-Pháp Khẩn-Na-La vương đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc câu hội. * Có bốn vị Càn-Thát-Bà vương Nhạc Càn-Thát-Bà vương, Nhạc-Âm-Càn Thát-Bà vương, Mỹ Càn-Thát-Bà vương, Mỹ-Âm Càn-Thát-Bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc câu hội. Có bốn vị A-Tu-La vương Bà-Trĩ A Tu-La vương, Dà-La-Khiên-Đà A-Tu La vương, Tỳ-Ma-Chất-Đa-La A-Tu-La vương, La-Hầu A-Tu-La vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến-thuộc câu hội. Có bốn vị Ca-Lâu-La vương Đại-Oai Đức Ca-Lâu-La vương, Đại-Thân Ca Lâu-La vương, Đại-Mãn Ca-Lâu-La vương, Như-Ý Ca-Lâu-La vương, đều cùng bao nhiêu quyến thuộc câu hội. Vua A-Xà-Thế, con bà Vi-Đề-Hi, cùng bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc câu hội. Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía. * Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng-dường cung kính ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ Tát mà nói kinh Đại-thừa tên là “Vô Lượng Nghĩa”, là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ-niệm. Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định “Vô Lượng Nghĩa Xứ”, thân và tâm của Phật đều không lay động. Khi đó trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cõi Phật sáu điệu vang động. Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận sự-nữ, Trời, Rồng, Dạ-Xoa, Càn-thát bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn và các vị tiểu-vương cùng Chuyển-luân-thánh-vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật. *** Kinh Diệu Pháp Liên Hoa *** Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào-quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc-cứu-cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng-sanh, ở các cõi kia. Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự-nữ, những người tu hành đắc đạo. Lại thấy các vị đại Bồ-Tát dùng các món nhân duyên, các lòng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-Tát. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu. Khi ấy, ngài Di-Lặc Bồ-Tát nghĩ rằng “Hôm nay đức Thế-Tôn hiện thần biến tướng, vì nhân duyên gì mà có điềm lành này. Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hi hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?” Ngài lại nghĩ “Ông Pháp-Vương-tử Văn-Thù Sư-Lợi này đã từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ chắc đã thấy tướng hi hữu này, ta nay nên hỏi ông”. * Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và các trời, rồng, quỷ, thần đều nghĩ rằng “Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?” Bấy giờ, ngài Di-Lặc Bồ-Tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, ngài lại xét tâm niệm của bốn-chúng Tỳ-kheo, Tỳ kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỷ, thần mà hỏi Văn-Thù Sư-Lợi rằng “Vì nhân duyên gì mà có tướng lành thần thông này? Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức Phật?” Khi đó, ngài Di-Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng Ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Đức Đạo-Sư cớ chi Lông trắng giữa chặn mày Phóng ánh sáng khắp soi? Trời mưa hoa Mạn-đà Cùng hoa Mạn-thù-Sa, Gió thơm mùi chiên đàn Vui đẹp lòng đại chúng Vì nhân duyên như vậy Cõi đất đều nghiêm tịnh Mà trong thế giới này Sáu điệu vang động lên Bấy giờ bốn bộ chúng Thảy đều rất vui mừng Thân cùng ý thơi thới Được việc chưa từng có. Ánh sáng giữa chặn mày Soi suốt thẳng phương Đông Một muôn tám nghìn cõi Đều ánh như sắc vàng. Từ địa ngục A-tỳ Trên đến trời Hữu-Đảnh Trong các thế giới đó Cả sáu đạo chúng sanh Sống chết của kia đến Nghiệp duyên lành cùng dữ Thọ báo có tốt xấu Tại đây đều thấy rõ. * Lại thấy các đức Phật Đấng Thánh-Chúa sư-tử Diễn nói các kinh điển Nhiệm mầu bậc thứ nhất. Tiếng của Ngài thanh-tịnh Giọng nói ra êm dịu Dạy bảo các Bồ-Tát Vô-số ức muôn người Tiếng Phạm-âm thâm diệu Khiến người đều ưa nghe. Các Phật ở cõi mình Mà giảng nói chánh pháp Dùng nhiều món nhân duyên Cùng vô lượng tỉ dụ Để soi rõ Phật Pháp Mà khai ngộ chúng sanh. Nếu có người bị khổ Nhàm lìa già, bệnh, chết, Phật vì nói Niết-bàn Để dứt các ngằn khổ Nếu là người có phước Đã từng cúng dường Phật Chí cầu pháp thù thắng Vì nói hạnh Duyên-giác Nếu lại có Phật tử Tu-tập các công hạnh Để cầu tuệ vô thượng Phật vì nói tịnh đạo. Ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Tôi ở tại nơi đây Thấy nghe dường ấy đó Và nghìn ức việc khác Thấy rất nhiều như thế Nay sẽ lược nói ra Tôi thấy ở cõi kia Có hằng sa Bồ-Tát Dùng các món nhân duyên Mà cầu chứng Phật đạo. Hoặc có vị bố-thí Vàng, bạc, ngọc, san-hô, Chơn châu, ngọc như-ý, Ngọc xa-cừ mã-não, Kim-cương các trân-bửu Cùng tôi tớ, xe cộ Kiệu, cán chưng châu báu Vui vẻ đem bố thí Hồi hướng về Phật đạo Nguyện được chứng thừa ấy Bậc nhất của ba cõi Các Phật hằng khen ngợi. Hoặc có vị Bồ-Tát Xe tứ mã xe báu Bao lơn che tàn đẹp Tròn trịa dùng bố thí. Lại thấy có Bồ-Tát Bố thí cả vợ con Thân thịt cùng tay chân Để cầu vô thượng đạo. Lại thấy có Bồ-Tát Đầu, mắt và thân thể Đều ưa vui thí cho Để cầu trí tuệ Phật *** Kinh Diệu Pháp Liên Hoa *** Ngài Văn-Thù Sư Lợi! Ta thấy các Quốc-vương Qua đến chỗ của Phật Thưa hỏi đạo vô thượng Bèn bỏ nước vui vẻ Cung điện cả thần thiếp Cạo sạch râu lẫn tóc Mà mặc y pháp phục. Hoặc lại thấy Bồ-Tát Mà hiện làm Tỳ-kheo Một mình ở vắng vẻ Ưa vui tụng kinh điển Cũng thấy có Bồ-Tát Dõng mãnh và tinh tấn Vào ở nơi thâm sơn Suy xét mối Phật đạo Và thấy bậc ly dục Thường ở chỗ không nhàn Sâu tu các thiền định Được năm món thần thông Và thấy vị Bồ-Tát Chắp tay trụ thiền định Dùng ngàn muôn bài kệ Khen ngợi các Pháp-vương Lại thấy có Bồ-Tát Trí sâu chí bền chắc Hay hỏi các đức Phật Nghe rồi đều thọ trì. Lại thấy hàng Phật tử Định huệ trọn đầy đủ Dùng vô lượng tỉ dụ Vì chúng mà giảng pháp Vui ưa nói các pháp Dạy bảo các Bồ-Tát Phá dẹp chúng binh ma Mà đánh rền trống pháp Cùng thấy vị Bồ-Tát Vắng bặt yên lặng ngồi Trời, rồng đều cung-kính Chẳng lấy đó làm mừng, Và thấy có Bồ-Tát Ở rừng phóng hào quang Cứu khổ chốn địa ngục Khiến đều vào Phật đạo. Lại thấy hàng Phật tử Chưa từng có ngủ nghỉ Kinh hành ở trong rừng Siêng năng cầu Phật đạo Cũng thấy đủ giới đức Uy nghi không thiếu sót Lòng sạch như bảo châu Để cầu chứng Phật đạo. * Và thấy hàng Phật tử Trụ vào sức nhẫn nhục Bị kẻ tăng-thượng-mạn Mắng rủa cùng đánh đập Thảy đều hay nhẫn được Để cầu chứng Phật đạo Lại thấy có Bồ-Tát Xa rời sự chơi cười Và quyến thuộc ngu si Ưa gần gũi người trí Chuyên tâm trừ loạn động Nhiếp niệm ở núi rừng Trải ức nghìn muôn năm Để cầu được Phật đạo. Lại thấy vị Bồ-Tát Đồ ăn uống ngọt ngon Cùng trăm món thuốc thang Đem cúng Phật và Tăng, Áo tốt đồ thượng phục Giá đáng đến nghìn muôn Hoặc là vô giá y Dùng nghìn muôn ức thứ Nhà báu bằng Chiên đàn Các giường nằm tốt đẹp Để cúng Phật cùng Tăng Rừng vườn rất thanh tịnh Bông trái đều sum sê Suối chảy cùng ao tắm Cúng cho Phật và Tăng, Cúng thí như thế đó Các đồ cúng tốt đẹp Vui vẻ không hề nhàm Để cầu đạo vô thượng. Lại có vị Bồ-Tát Giảng nói pháp tịch diệt Dùng các lời dạy dỗ Dạy vô số chúng sanh Hoặc thấy vị Bồ-Tát Quán sát các pháp tịnh Đều không có hai tướng Cũng như khoảng hư không Lại thấy hàng Phật tử Tâm không chỗ mê đắm Dùng món diệu huệ này Mà cầu đạo vô thượng. * Ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Lại có vị Bồ-Tát Sau khi Phật diệt độ Cúng dường Xá-Lợi-Phật. Lại thấy hàng Phật tử Xây dựng các tháp miếu Nhiều vô số hằng sa Nghiêm sức khắp cõi nước. Bảo tháp rất cao đẹp Đều năm nghìn do tuần. Bề ngang rộng xứng nhau Đều hai nghìn do tuần. Trong mỗi mỗi tháp miếu Đều có ngàn tràng phan Màn châu xen thả xuống Tiếng linh báu hòa reo Các vị trời, rồng, thần, Người cùng với phi nhơn Hương, hoa, cùng kỹ nhạc Thường đem đến cúng dường Ngài Văn-Thù Sư-Lợi! Các hàng Phật tử kia Vì cúng dường xá-lợi Nên trang sức tháp miếu, Cõi quốc giới tự nhiên Thù đặc rất tốt đẹp Như cây Thiên-thụ-vương Hoa kia đang xòe nở *** Kinh Diệu Pháp Liên Hoa *** Phật phóng một luồng sáng Ta cùng cả chúng hội Thấy nơi cõi nước này Các thứ rất tốt đẹp Thần lực của chư Phật Trí huệ đều hi hữu Phóng một luồng tịnh-quang Soi khắp vô lượng cõi Chúng ta thấy việc này Được điều chưa từng có. Xin Phật tử Văn-Thù Giải quyết lòng chúng nghi Bốn chúng đều mong ngóng Nhìn ngài và nhìn ta Đức Thế-Tôn cớ chi Phóng ánh quang minh này? Phật tử phải thời đáp Quyết nghi cho chúng mừng Có những lợi ích gì Đức Phật phóng quang này? Khi Phật ngồi đạo tràng Chứng được pháp thâm diệu Vì muốn nói Pháp đó Hay là sẽ thọ ký? Hiện bày các cõi Phật Các báu sạch trang nghiêm Cùng thấy các đức Phật Đây không phải cớ nhỏ Ngài Văn-Thù nên biết Bốn chúng và Long, Thần Nhìn xem xét ngài đó Mong sẽ nói những gì? * Lúc bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi nói với ngài Di-Lặc Đại Bồ-Tát cùng các vị Đại-sĩ “Các Thiện-nam-tử! Như chỗ tôi xét nghĩ thì nay đức Phật Thế-Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn. Các thiện-nam-tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này. Các thiện-nam-tử! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước. Bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện thệ Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều ngự Trượng-phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật, Thế-Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch. Phật, vì người cầu đạo Thanh-văn, nói pháp Tứ-đế thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên-giác, nói pháp Mười hai-nhân-duyên, vì hàng Bồ-Tát nói sáu pháp Ba-la-mật, làm cho chứng được quả vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác thành bậc nhứt-thiết chủng trí. * Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng-Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật-Nguyệt Đăng Minh, lại cùng đồng cùng một họ, họ Phả-La-Đọa. Di-Lặc nên biết! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhật Nguyệt Đăng-Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra, đầu, giữa, sau đều lành. Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất-gia có tám vị vương- tử Người thứ nhất tên Hữu-Ý, thứ hai tên Thiện-Ý, thứ ba tên Vô-Lượng-Ý, thứ tư tên Bửu-Ý, thứ năm tên Tăng-Ý, thứ sáu tên Trừ-Nghi-Ý, thứ bảy Hưởng-Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Tám vị vương- tử đó có uy đức tự tại đều lãnh trị bốn châu thiên hạ. Nghe vua cha xuất gia chứng đạo vô thượng chánh-đẳng chánh-giác đều bỏ ngôi vua cũng xuất-gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành. Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên “Vô-Lượng Nghĩa-Xứ” là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định “Vô-Lượng Nghĩa-Xứ”, thân và tâm chẳng động. * Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa cùng hoa Ma-ha Mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại-chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động. Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận-sự nam, cận-sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhơn, phi-nhơn cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển-luân thánh-vương các đại-chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một lòng nhìn Phật. Bấy giờ, đức Như-Lai từ tướng lông trắng chặn giữa chân mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám nghìn cõi nước ở phương đông, như nay đương thấy ở cõi Phật đây. Di-Lặc nên biết! Khi đó trong hội, có hai mươi ức Bồ-Tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-Tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh-sáng này. Khi ấy, có vị Bồ-Tát hiệu Diệu-Quang có tám trăm người đệ-tử. Bấy giờ, đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh-định mà dậy, vì Diệu-Quang Bồ-Tát nói kinh Đại-thừa tên “Diệu-Pháp Liên-Hoa” là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi. *** Kinh Diệu Pháp Liên Hoa *** Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi. Đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng Ma, Phạm, Sa môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu la mà tuyên rằng “Hôm nay vào nửa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô-dư Niết bàn”. Khi đó có vị Bồ-Tát, tên Đức-Tạng đức Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh liền thọ ký cho, bảo các Tỳ-kheo rằng “Ông Đức-Tạng Bồ-Tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh-Thân Như-Lai Ứng-cúng, chánh-đẳng chánh-giác”. Đức Phật thọ ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô-dư Niết-bàn. Sau khi đức Phật diệt-độ, Diệu-Quang Bồ-Tát trì kinh “Diệu-Pháp Liên-Hoa” trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói. * Tám người con của Phật Nhật-Nguyệt Đăng-Minh đều học với ngài Diệu-Quang, ngài Diệu-Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác. Các vị Vương tử đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật-đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên-Đăng. Trong hàng tám trăm người đệ-tử có một người tên Cầu-Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu-Danh. Người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi. Di-Lặc nên biết! Lúc đó Diệu-Quang Bồ-Tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. Còn Cầu-Danh Bồ-Tát là ngài đấy. Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ hôm nay đức Phật Như-Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên “Diệu-Pháp Liên-Hoa” là pháp giáo hoá Bồ-Tát được chư Phật hộ niệm. Bấy giờ, ngài Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát ở trong đại-chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng * Ta nhớ thuở quá khứ Vô lượng vô số kiếp Có Phật Nhân Trung-Tôn Hiệu Nhật-Nguyệt Đăng-Minh Đức Thế-Tôn nói pháp Độ vô lượng chúng sanh Vô số ức Bồ-Tát Khiến vào trí huệ Phật. Khi Phật chưa xuất gia Có sanh tám vương-tử Thấy Đại-Thánh xuất gia Cũng theo tu phạm-hạnh Phật nói kinh Đại-thừa Tên là “Vô-Lượng-Nghĩa” Ở trong hàng đại chúng Mà vì rộng tỏ bày. Phật nói kinh ấy rồi Liền ở trong pháp tòa Xếp bằng nhập chánh định Tên “Vô-Lượng-Nghĩa-Xứ” Trời rưới hoa Mạn-đà Trống trời tự nhiên vang Các trời, rồng, quỷ, thần Cúng dường đấng Nhân-Tôn, Tất cả các cõi Phật Tức thời vang động lớn, Phật phóng sáng giữa mày Hiện các việc hi hữu Ánh sáng chiếu phương Đông Muôn tám nghìn cõi Phật Bày sanh tử nghiệp báo Của tất cả chúng sanh Lại thấy các cõi Phật Dùng các báu trang nghiêm Màu lưu ly pha lê Đây bởi Phật quang soi. Lại thấy những trời, người Rồng, thần, chúng Dạ-xoa Càn-thát, Khẩn-na-la Đều cúng dường Phật mình Lại thấy các Như-Lai Tự nhiên thành Phật đạo, Màu thân như núi vàng Đoan nghiêm rất đẹp mầu Như trong lưu ly sạch Hiện ra tượng chơn kim Thế-Tôn trong đại chúng Dạy nói nghĩa thâm diệu. * Mỗi mỗi các cõi Phật Chúng Thanh-văn vô số, Nhân Phật-quang soi sáng Đều thấy đại-chúng kia. Hoặc có các Tỳ-kheo Ở tại trong núi rừng Tinh tấn giữ tịnh giới Dường như gìn châu sáng Lại thấy các Bồ-Tát Bố thí nhẫn nhục thảy Số đông như hằng sa Đây bởi sáng Phật soi. Lại thấy hàng Bồ-Tát Sâu vào các thiền định Thân tâm lặng chẳng động Để cầu đạo vô thượng. Lại thấy các Bồ-Tát Rõ tướng pháp tịch diệt Đều ở tại nước mình Nói pháp cầu Phật đạo. Bấy giờ bốn bộ chúng Thấy Phật Nhật-Nguyệt-Đăng Hiện sức thần thông lớn Tâm kia đều vui mừng Mỗi người tự hỏi nhau Việc này nhân-duyên gì? Đấng của trời người thờ Vừa từ chánh-định dậy Khen Diệu-Quang Bồ-Tát Ông là mắt của đời Mọi người đều tin về Hay vâng giữ tạng pháp Như pháp của ta nói Chỉ ông chứng biết được Đức Phật đã ngợi khen Cho Diệu-Quang vui mừng Liền nói kinh Pháp-Hoa Trải sáu mươi tiểu kiếp Chẳng rời chỗ ngồi ấy Ngài Diệu-Quang Pháp-sư Trọn đều hay thọ trì Pháp thượng diệu của Phật. *** Kinh Diệu Pháp Liên Hoa *** Phật nói kinh Pháp-Hoa Cho chúng vui mừng rồi Liền chính trong ngày đó Bảo hàng chúng trời, người Các pháp “nghĩa thật tướng” Đã vì các ông nói Nay ta giữa đêm này Sẽ vào cõi Niết-bàn Phải một lòng tinh tấn Rời các sự buông lung Các Phật rất khó gặp Ức kiếp được một lần Các con của Phật thảy Nghe Phật sắp nhập diệt Thảy đều lòng buồn khổ Sao Phật gấp Niết-bàn? Đấng Thánh-chúa-Pháp-vương An ủi vô lượng chúng Nếu lúc ta diệt độ Các ông chớ lo sợ Đức-Tạng Bồ-Tát đây Tâm đã được thông thấu Nơi vô lậu thiệt tướng Kế đây sẽ thành Phật Tên hiệu là Tịnh-Thân Cũng độ vô lượng chúng. Đêm đó Phật diệt độ Như củi hết, lửa tắt Chia phân các xá-lợi Mà xây vô lượng tháp Tỳ- kheo, Tỳ-kheo-ni Số đông như hằng sa Lại càng thêm tinh tấn Để cầu đạo vô thượng Diệu-Quang pháp-sư ấy Vâng giữ Phật pháp tạng Trong tám mươi tiểu kiếp. Rộng nói kinh Pháp-Hoa. Tám vị vương-tử đó Được Diệu-Quang dạy bảo Vững bền đạo vô-thượng Sẽ thấy vô số Phật Cúng dường các Phật xong Thuận theo tu đại đạo Nối nhau đặng thành Phật Chuyển thứ thọ ký nhau, Đấng Phật rốt sau cả Hiệu là Phật Nhiên-Đăng Đạo-Sư của thiên tiên Độ thoát vô lượng chúng. * Diệu-Quang Pháp-sư đó Có một người đệ tử Tâm thường cưu biếng trễ Tham ưa nơi danh lợi Cầu danh lợi không nhàm Thường đến nhà sang giàu Rời bỏ việc tụng học Bỏ quên không thông thuộc Vì bởi nhân duyên ấy Nên gọi là Cầu-Danh Cũng tu các nghiệp lành Được thấy vô số Phật Thuận tu theo đại đạo Đủ sáu ba-la-mật Nay gặp đấng Thích-Ca Sau đây sẽ thành Phật Hiệu rằng “Phật Di-Lặc Rộng độ hàng chúng sanh Số đông đến vô lượng. Sau Phật kia diệt độ Lười biếng đó là ngài Còn Diệu-Quang Pháp-sư Nay thời chính là ta. Ta thấy Phật Đăng-Minh Điềm sáng trước như thế Cho nên biết rằng nay Phật muốn nói “Pháp-Hoa” Tướng nay như điềm xưa. Là phương tiện của Phật Nay Phật phóng ánh sáng Giúp bày nghĩa thiệt tướng Các người nay nên biết Chắp tay một lòng chờ Phật sẽ rưới nước pháp Đầy đủ người cầu đạo Các người cầu ba thừa Nếu có chỗ nghi hối Phật sẽ dứt trừ cho Khiến hết không còn thừa. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Hết Phẩm thứ nhất *** Đây là bộ Pháp Âm mp3 Kinh Pháp Hoa Giảng Luận do cố Hòa Thượng Thích Thông Bữu thuyết giảng trong Đạo Tràng Diệu Pháp Liên Hoa tại Viêt Nam từ năm 1997 đến 2000. Bài 94 và 95, Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát được bổ túc vào ngày xin cám ơn sự đóng góp cùa bác đạo hữu Chúc Trực. Bài 37, Phẩm Chúc Lụy đã được bổ túc nhờ sự đóng góp của cô Diệu Thảo ở Úc. Các thời pháp sau đây vẫn còn bị thiếu sót 52, 54, 56, 57, và 62 - Nếu ai có các thời pháp này để bổ xung xin hãy liên lạc HueTri SỬ HÒA THƯỢNG THƯỢNG THÔNG HẠ BỮUHòa thượng THÍCH THÔNG BỬU thế danh TRẦN THƯỢNG HIỀN, sinh ngày 02-09-1936 Bính Tý tại xã Xuân Quang 2, huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú Yên. Ngài xuất thân trong gia đình nhiều đời thâm tín Đạo Phật. Thân phụ là cụ ông Trần Qúa tự Nguyễn Nghiêm, pháp danh Thiện Hóa, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Ngã, pháp danh Quảng Ngộ. Gia đình có ba anh em, ngài là con thứ hai. Thời niên thiếu, ngài đã tham gia sinh hoạt gia đình phật tử huyện Đồng Xuân. Sớm nhận ra đời người vô thường giả hợp, năm 1956 ngài xin song thân cho xuất gia tu hành. Được song thân đồng ý, ngài đến chùa Long Hà, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân theo hầu Hòa Thượng Thích Như Tâm. Đến năm 1957 ngài vào Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tìm cầu học hỏi Phật pháp, duyên lành gặp được Hòa Thượng Thích Quảng Đức tại tổ đình Thiên Bửu “thượng”, ngài khẩn cầu xin làm đệ tử và được Hòa Thượng hoan hỉ tiếp nhận, cho pháp danh Đồng Phước. Sau đó, được tin thân phụ bệnh nặng ngài đành về lại quê hương chăm sóc, khi người khỏi bệnh ngài trở vào Ninh Hòa theo thầy, thì lúc đó Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã trở vào Nam hoằng hóa Phật pháp. Thầy trò không gặp nhau nên ngài cầu Hòa Thượng Thích Viên Giác chùa Giác Hải Vạn Gĩa làm y chỉ sư nương tựa tu học. Để có giới đức trang nghiêm thân tâm, thăng tiến trên đường giải thoát, năm 1960 ngài đã thọ giới tỳ kheo Bồ Tát. Đến năm 1962, được tin Hòa Thượng Thích Quảng Đức phổ hóa Phật pháp tại Sài Gòn, ngài xin Hòa Thượng y chỉ sư cho vào Nam gặp thầy tổ. Khi gặp lại Hòa Thượng bổn sư, ngài một mực hầu thầy, tiến tu đạo hạnh và được bổn sư ban pháp tự Thông Bửu. Gặp lúc nước nhà đấu tranh dành độc lập, Phật giáo cũng không thể đứng ngoài làm ngơ, nhất là năm 1963 Phật giáo bị lâm vào pháp nạn. Hòa Thượng bổn sư và ngài dấn thân vào cuộc đấu tranh cho sự trường tồn của đạo pháp và dân tộc, mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh là ngọn lửa tự thiêu của Bồ Tát Quảng Đức làm chấn động lòng người, kéo theo sự sụp đổ triều đại Ngô Đình Diệm sau đó. Cuộc đấu tranh của Phật giáo không dừng lại, mà vẫn tiếp diễn, tổ đình Quán Thế Aâm trở thành nơi trung tâm phát xuất những phong trào xuống đường rầm rộ ở Gia Định. Tổ đình cũng là nơi cơ sở hoạt động nội thành, in ấn, phát tán tài liệu cách mạng trước 1975, trong đó có in và bí mật phổ biến quyển Tù Chính Trị, gây xôn xao dư luận quần chúng trong nước và nước ngoài thời bấy giờ. Trước khi tự thiêu, Hòa Thượng bổn sư gởi gắm ngài cho chư tôn đức Giáo Hội giúp đỡ kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế Âm. Với tâm nguyện phát triển tổ đình làm nơi tu học cho hàng xuất gia và tại gia, năm 1965 ngài đã cung thỉnh Hòa Thượng Thích Vạn Ân chùa Hương Tích, Phú Yên về tổ đình chứng minh. Thời gian này ngài cầu pháp với Hòa Thượng, được ban pháp hiệu Viên Khánh và được trao truyền pháp hành trì mật tông. Do nhu cầu phật sự, Ban Đại Diện Phật Giáo tỉnh cung thỉnh Hòa Thượng Thích Vạn Aân về lại Phú Yên làm chứng minh đạo sư Giáo Hội, nên ngài cung thỉnh Hòa Thượng Thích Huyền Cơ về chứng minh tổ đình, tiếp tăng độ chúng. Ngài luôn ý thức muốn đạt đến chỗ giải thoát, cần phải có pháp tu, do đó cả cuộc đời ngài thực hiện theo sự chỉ giáo của Bồ Tát Quảng Đức về phương pháp hành trì kinh Pháp Hoa và tu tập theo pháp mật tông của Hòa Thượng Thích Vạn Ân. Đây là hai pháp môn ngài rất tâm đắc. Đồng thời nhận ra rằng, sự kế thừa mạng mạch Phật pháp phải cần đào tạo tăng tài, nên năm 1964 ngài thu nhận 22 học tăng từ các tỉnh về Sài gòn tu học, trong đó có những vị hiện nay đã thành danh như Hòa Thượng Thích Quảng Thiện, Hòa Thượng Thích Tịnh Từ … . Năm 1965 ngài mở mang tổ đình thành tu viện và từ đó cho đến nay ngài đã nhận 31 đệ tử xuất gia và cầu pháp. Đặc biệt năm 1967, ngài mở trường hạ, tổ chức giới đàn Sa di tại tổ đình, ngài làm hoá chủ kiêm đàn chủ. Những năm 1968 – 1974 liên tục mở các khóa an cư kiết hạ, mời giảng sư giảng dạy kinh luật luận cho chư tăng. Song song với việc tiếp tăng độ chúng, ngài còn chú trọng đến công tác giáo dục và đào tạo tăng tài, nên đã tham gia giảng dạy tại trường cao trung Phật học Đại Tòng Lâm, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Ngoài ra, ngài còn giảng dạy những chuyên đề Phật học tại các trường Phật học và các trường hạ khắp Bắc Trung Nam trong dịp hướng dẫn phật tử hành hương cúng dường an cư kiết hạ. Để phổ hóa sâu rộng giáo lý Đạo Phật vào quần chúng, năm 1964 – 1985 ngài đã tổ chức đạo tràng Diệu Pháp Liên Hoa tại tổ đình Quán Thế Âm, giảng dạy cho phật tử, tín đồ nắm rõ phương pháp tu hành. Năm 1991 ngài thành lập sáu liên chúng đưa đạo tràng vào sự tu học có tổ chức. Cung thỉnh 14 vị Hòa Thượng, Thượng Tọa thành lập Ban giáo thọ giảng dạy giáo lý cho phật tử. Và ngài cũng quan tâm đến thế hệ trẻ, nên năm 1965 thành lập gia đình phật tử Chánh Đức, hướng dẫn các em học tập giáo lý nhà Phật. Chẳng những quan tâm truyền bá giáo lý Phật giáo cho giới tăng ni, phật tử, mà ngài còn cố gắng đưa tinh thần đạo Phật rộng khắp qua mảng văn hóa để làm lợi lạc quần sanh như - 1965 sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tập san “Sử liệu thức”. - 1966 thành lập “Ấn quán Phổ Đà Sơn” và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí An Lạc, tuần báo An Lạc. - Biên soạn Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa giảng luận 2 tập, Phổ Môn giảng luận, Phật pháp căn bản, 25 bài giảng Phật pháp, Quản trị học Phật giáo, 36 pháp điều thân. - Sáng tác Giảng Sư Bảy Đức Tính Ưu Việt, Truyện ngắn triết lý Phật giáo bằng tranh, Thi phẩm Từng Giọt Ma Ni. - Chủ biên nội san tổ đình Quán Thế Âm từ năm 1999 –2007. - Phát hành một số băng đĩa giảng Phật pháp của ngài, băng đĩa phổ nhạc một số bài thơ trong thi phẩm Từng Giọt Ma Ni. Ngoài hạnh nguyện hoằng pháp lợi sanh, ngài còn tổ chức các chuyến hành hương cúng dường các trường hạ trong nước suốt mười năm 1995 – 2005 và vận động phật tử phát tâm giúp dân nghèo, cứu trợ đồng bào thiên tai bão lụt. Là Trưởng tử của Bồ Tát Quảng Đức, được kế thế trụ trì tổ đình Quán Thế Aâm ngôi chùa thứ 31 và cuối cùng của Bồ Tát, ngài có trách nhiệm trùng tu, mở rộng ngôi tổ đình thành nơi trang nghiêm thờ phụng tam bảo và xây dựng cơ sở nhà tăng, phòng ốc để chư tăng có nơi tu học. Qúa trình trùng tu đã thực hiện qua các giai đoạn - 1964 xây dựng dãy nhà tăng. - 1966 làm lễ đặt đá trùng tu tổ đình. - 1969 khởi công xây cất ngôi chánh điện. - 1971 xây dựng dãy nhà lưu niệm Bồ Tát Quảng Đức và phòng khánh tiết. - 1983 tạo tượng Bồ Tát Quán Thế Aâm Thập Nhứt Diện. - 1992 xây bảo tháp Lửa Từ Bi và đúc tượng đồng Bồ Tát Quảng Đức. - 1994 xây bảo tháp chánh điện. - 2000 đúc tượng đồng Đức Phật Thích Ca. Năm 1986 ngài còn khai sơn ngôi chùa Quảng Đức tại Mađagui, huyện Đạ Oai, Tỉnh Lâm Đồng. Năm 1998 xây dựng nhà từ đường Bồ Tát Quảng Đức tại xã Tu Bông, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm 2000 trùng tu chùa Thiên Phước huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang ngôi chùa thứ 30 của Bồ Tát Quảng Đức khai sơn. Năm 2002 tái thiết chùa Phước Huệ Hàm Long tại xã Xuân Quang 2, Huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú Yên. Mặc dù Phật sự bề bộn, ngài vẫn dành thời gian tham gia công tác Giáo Hội và đã giữ các chức vụ - Năm 1966 – 1975 Chánh thư ký Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định. - Năm 1967 – 1974 Sáng lập viên Tổng Đoàn Thanh Niên Tăng Ni Sài Gòn – Gia Định và giữ chức vụ Phó Tổng Đoàn . - Năm 1972 – 1975 Tổng thư ký Tổng Vụ cư sĩ GHPGVNTN. - Năm 1975 – 1977 Chánh Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định. - Năm 1977 – 1981 Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ cư sĩ GHPGVNTN. - Năm 2002 Đại hội Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ 5, Trung Ương GHPGVN chính thức tấn phong ngài lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng. - Năm 2003 Trung Ương MTTQVN mời ngài vào thành viên Hội Đồng Tư Vấn tôn giáo và sắc tộc Trung Ương. Ngài tính tình vui vẻ, ưa chuộng văn chương, hiếu khách, giao thiệp rộng rãi, nên được nhiều người kính mến, giới văn nghệ sĩ thường đến với ngài. Các giới phật tử về tổ đình tu học ngày càng đông. Khách thập phương đến chiêm bái, tìm hiểu về Bồ Tát Quảng Đức ngày càng nhiều. Với sự thông minh, ý chí và nghị lực phi thường, với tấm lòng bao la trải rộng, ngài đã hy sinh suốt cuộc đời mình cho đạo pháp, quê hương và dân tộc. Đến những năm tháng cuối đời, dù bệnh tật càng lúc càng nặng, nhưng Hòa Thượng vẫn cố gắng tiếp tục giảng dạy Phật pháp cho chư tăng ni, phật tử và vẫn chỉ đạo sự sinh hoạt tổ đình một cách đều đặn. Trải qua một thời gian lâm bệnh, dù được các cấp Giáo Hội quan tâm, môn đồ pháp quyến chăm sóc chu đáo, các y bác sĩ bệnh viện tận tình chữa trị, nhưng bệnh tình của ngài không thuyên giảm. Đến hồi nhân duyên đã mãn, ngài thâu thần thị tịch tại tổ đình Quán Thế Aâm lúc 21 giờ ngày 14 tháng giêng năm Đinh Hợi tức ngày 02-03-2007, trụ thế 72 năm, 47 giới lạp. Tuy ra đi về cõi Phật, nhưng hình ảnh và đức độ của ngài vẫn còn mãi trong lòng môn đồ pháp quyến, tăng ni và phật tử xa duy Quán Thế Âm đường thượng tự Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Tam Thế, huý thượng Đồng hạ Phước tự Thông Bửu hiệu Viên Khánh hòa thượng giác linh tân viên tịch đài tiền chứng giám. Trà Vinh là thành phố của tỉnh Trà Vinh. Hãy cùng Địa Ốc Thông Thái tìm hiểu quy hoạch chi tiết của thành phố Trà Vinh trong bài viết này nhé. Thông tin tổng quan VùngĐồng bằng sông Cửu Long Thành lập4/3/2010 Diện tích68,03 km² Dân số người 2019 Mật độ người/km² Dân tộcKinh, Hoa, Khmer Mã hành chính Biển số84-B1-C1 Website Xem thêm Bản đồ hành chính TP Trà Vinh Bản đồ kế hoạch sử dụng đất TP Trà Vinh đến năm 2021 Bản đồ quy hoạch online Bản đồ KHSDĐ Thành phố Trà Vinh đến năm 2021 Download file PDF – Tải về file quy hoạch Bản đồ quy hoạch sử dụng đất TP Trà Vinh đến năm 2030 Bản đồ quy hoạch online Bản đồ QHSDĐ Thành phố Trà Vinh đến năm 2030 Download file PDF – Tải về file quy hoạch Tra cứu nhanh bản đồ và quy hoạch Xem thêm quy hoạch tổng thể Trà Vinh và quy hoạch chi tiết của Thành phố Trà Vinh Thị xã Duyên Hải Huyện Càng Long Huyện Cầu Kè Huyện Cầu Ngang Huyện Châu Thành Huyện Duyên Hải Huyện Tiểu Cần Huyện Trà Cú Xem thêm quy hoạch của Hà Nội Hồ Chí Minh Đà Nẵng Hải Phòng Cần Thơ An Giang Bà Rịa – Vũng Tàu Bạc Liêu Bắc Kạn Bắc Giang Bắc Ninh Bến Tre Bình Dương Bình Định Bình Phước Bình Thuận Cà Mau Cao Bằng Đắk Lắk Đắk Nông Điện Biên Đồng Nai Đồng Tháp Gia Lai Hà Giang Hà Nam Hà Tĩnh Hải Dương Hòa Bình Hậu Giang Hưng Yên Khánh Hòa Kiên Giang Kon Tum Lai Châu Lào Cai Lạng Sơn Lâm Đồng Long An Nam Định Nghệ An Ninh Bình Ninh Thuận Phú Thọ Phú Yên Quảng Bình Quảng Nam Quảng Ngãi Quảng Ninh Quảng Trị Sóc Trăng Sơn La Tây Ninh Thái Bình Thái Nguyên Thanh Hóa Thừa Thiên – Huế Tiền Giang Trà Vinh Tuyên Quang Vĩnh Long Vĩnh Phúc Yên Bái Bài đề xuất Bài viết mới Vui lòng đăng nhập trước khi thêm vào playlist! Tải Nhạc 128 Kbps Thêm bài hát vào playlist thành công Thêm bài hát này vào danh sách Playlist Bài hát thi vinh phap hoa kinh 3 do ca sĩ Bich Phuong, Nguyen Duc thuộc thể loại The Loai Khac. Tìm loi bai hat thi vinh phap hoa kinh 3 - Bich Phuong, Nguyen Duc ngay trên Nhaccuatui. Nghe bài hát Thi Vịnh Pháp Hoa Kinh 3 chất lượng cao 320 kbps lossless miễn phí. Ca khúc Thi Vịnh Pháp Hoa Kinh 3 do ca sĩ Bích Phượng, Nguyên Đức thể hiện, thuộc thể loại Thể Loại Khác. Các bạn có thể nghe, download tải nhạc bài hát thi vinh phap hoa kinh 3 mp3, playlist/album, MV/Video thi vinh phap hoa kinh 3 miễn phí tại

thi vinh phap hoa kinh