theo lời chúa nói
CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN NĂM C (Lc 12, 49-53) LỜI CHÚA CHA CHỈ DẠY. Kính thưa cộng đoàn dân Chúa, Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay nói về hành trình đức tin của những người khi đi theo Đức Giêsu Kitô.
Như cái máy, Mồ Côi nghe theo lời, sửa lại vị trí bùi nhùi thì quả nhiên đánh lửa bén ngay. Vẫn không một lời cảm ơn hay nói gì với công chúa, anh cứ cắm cúi làm công việc của mình. Sau khi cơm canh đã chín, Mồ Côi nấu luôn ấm nước chè.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. (Lc 18, 1-8 . Phụng vụ Lời Chúa tuần lễ thứ 29 thường niên, gợi mở cho con người thấy được tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong đời sống người tín hữu ra sao, thấy được niềm vui có Thiên Chúa trong cuộc đời, đặc biệt
Chúng ta tránh điều đó bằng cách sống theo lời khuyên này của Chúa Giê-su: "Trước hết, hãy tìm-kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công-bình của Ngài" ( Mat 6:33 ). Thật khích lệ biết bao khi nhìn thấy các tôi tớ của Đức Chúa Trời—trẻ tuổi cũng như lớn tuổi—áp
Lời Chúa Về Cuộc Thương Khó: (Lc22:31-34) Rồi Chúa nói: "Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin.
Câu nói tốt về lời hay ý đẹp kinh thánh ý nghĩa. 8. Không phải bất cứ ai thưa cùng với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! tuy nhiên chỉ ai thực hiện ý mong mỏi của thân phụ Thầy là Ðấng ngự bên trên trời, mới được vào mà lại thôi. 9. Người ta đem tất cả những kẻ đau
Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. THEO CHÚAĐức Thiện – Thủy Tiên Này Chúa hỡi con nguyện xin yêu Chúa chẳng khi ngơi. Dù gian truân con nguyện xin theo Chúa suốt đường đời. Dù có lúc tâm hồn con xao xuyến cay đắng nhiều. Thì trung kiên con nguyện xin theo Chúa không rời. Này Chúa hỡi sao Ngài không lên tiếng cho con vui ? Ngài im hơi cho hồn co lo lắng âu sầu nhiều. Này Chúa hỡi sao Ngài yêu con đến như thế ư ? Đành hy sinh nên thần lương nuôi sống muôn người. Này Chúa hỡi tâm hồn con thao thức suốt canh thâu. Chờ mong sao như đàn nai khao khát nước nguồn trào. Này Chúa hỡi cin Ngài thương mau đến thăm viếng con. Vì con đây đang hoài mong Chúa đến thăm hồn. Này Chúa hỡi xin Ngài thương ban phúc cho con luôn. Dù ra sao không bội ơn Thiên Chúa ban đầy tràn. Dù thất tín nhưng bền tâm tin Chúa luôn thứ tha. Tình Cha thương ôi tình thương không bến không bờ. ĐK Con xin theo Chúa đến giây phút cuối cuộc đời. Để đáp ân tình Ngài thương ban cho từ lâu. Con xin tha thiết thốt lên một lần nữa là Con quyết luôn theo Ngài. Paulus
Tiếp tục suy tư về thánh Giuse, trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 15/12 Đức Thánh Cha đã nói về thánh Giuse “con người thinh lặng”. Hồng Thuỷ - Vatican News Đức Thánh Cha nói rằng các sách Phúc Âm không tường thuật lời nào của thánh Giuse, nhưng trình bày ngài như một kiểu mẫu về việc chú ý lắng nghe lời Chúa và hành động theo lời đó. Thật vậy, sự im lặng của thánh Giuse là dấu hiệu của tâm hồn chiêm niệm. Sự khiêm nhường thầm lặng của thánh nhân dạy chúng ta dành chỗ trong tâm hồn mình cho Chúa Giêsu và do đó nhận biết ý muốn của Chúa Cha đối với cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu học được tầm quan trọng của sự thinh lặng từ gương của thánh Giuse và Mẹ Maria, và đã dạy các môn đệ của ngài rèn luyện điều đó. Đức Thánh Cha nhắc các tín hữu rằng chúng ta cũng được kêu gọi thực hiện sự thinh lặng nội tâm và chăm chú lắng nghe lời Chúa, kẻo những lo lắng, cám dỗ và sợ hãi hàng ngày khiến lời nói của chúng ta lạc lối và gây tổn thương cho người khác. Mặc dù không dễ dàng, nhưng nuôi dưỡng sự thinh lặng chiêm niệm là một con đường chắc chắn dẫn đến sự hiểu biết đích thực về bản thân và tăng trưởng đời sống tâm linh. Trước khi Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý, cộng đoàn cùng nghe đoạn sách trích từ thư thánh Giacôbê 3, “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân... Cái lưỡi cũng vậy nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn... Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa”. Kính mời quý vị nghe bài giáo lý của Đức Thánh Cha. Anh chị em thân mến, chào anh chị em! Chúng ta tiếp tục suy tư về thánh Giuse. Sau khi đã trình bày về môi trường sống của ngài, vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ, và trình bày về ngài như là người công chính và hôn phu của Mẹ Maria, hôm nay tôi muốn xem xét một khía cạnh quan trọng khác nơi con người ngài đó là sự thinh lặng. Ngày nay, rất nhiều lần chúng ta cần sự thinh lặng. Thinh lặng rất quan trọng, tôi bị đánh động bởi một câu trong Sách Khôn ngoan, mà khi đọc nó tôi nghĩ về lễ Giáng sinh. Đó là “Khi đêm chìm trong sự im lặng sâu thẳm nhất, thì lời của người đã xuống trần gian”. Trong khoảnh khắc im lặng nhất Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra. Điều quan trọng là phải nghĩ về sự im lặng trong thời đại mà dường như nó không có nhiều giá trị lắm. Các sách Phúc âm không tường thuật bất kỳ lời nào của thánh Giuse thành Nadarét. Ngài không nói lời nào. Điều này không có nghĩa là ngài là người lầm lì. Không! có một lý do sâu xa hơn. Với sự thinh lặng của mình, thánh Giuse xác nhận điều mà thánh Augustinô viết “Theo thước đo mà Ngôi Lời - Ngôi Lời làm người - lớn lên trong chúng ta thì lời nói giảm đi”[1]. Theo thước đo mà Chúa Giêsu, đời sống thiêng liêng tăng lên, thì lời nói bớt đi. Chúng ta có thể nói rằng những người nói như vẹt bớt nói đi một tí. Chính thánh Gioan Tẩy Giả, là tiếng kêu trong hoang địa “Hãy dọn đường cho Chúa” Mt 3, 1, đã nói về Ngôi Lời “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại” Ga 3,30. Điều này có nghĩa là Người phải nói còn tôi phải im lặng. Qua sự thinh lặng của mình, thánh Giuse mời gọi chúng ta hãy dành chỗ cho sự Hiện diện của Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm, cho Chúa Giêsu. Sự thinh lặng của thánh Giuse không phải là sự khuyết tật, không phải là sự lầm lì; đó là một sự im lặng đầy lắng nghe, một sự im lặng cần cù, một sự im lặng bộc lộ nội tâm cao cả của ngài. Thánh Gioan Thánh Giá nhận xét “Chúa Cha đã nói một lời, và đó là Con của Người, và Lời này luôn luôn nói trong sự thinh lặng vĩnh cửu, và trong thinh lặng, Lời này phải được linh hồn lắng nghe”[2]. Đức Thánh Cha nói tiếp Chúa Giêsu đã được lớn lên trong “trường học” này, trong ngôi nhà ở Nadarét, với gương mẫu hàng ngày của Đức Maria và Thánh Giuse. Và không có gì ngạc nhiên khi chính Người đã tìm kiếm những khoảng thinh lặng trong những ngày của Người x. Mt 14,23 và đã mời gọi các môn đệ hãy có một kinh nghiệm như thế “Anh em hãy vào nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một lát” Mc 6,31. Thật tốt biết bao nếu mỗi người chúng ta, theo gương thánh Cả Giuse, có thể tìm lại chiều kích chiêm niệm của cuộc sống, được mở rộng cho sự thinh lặng. Nhưng từ kinh nghiệm, chúng ta đều biết rằng điều đó không hề dễ dàng sự im lặng làm chúng ta sợ hãi đôi chút, bởi vì nó đòi chúng ta nhìn sâu hơn vào bản thân và đối diện với phần chân thật nhất của chúng ta. Rất nhiều người sợ sự im lặng, họ phải nói, hoặc nghe, radio, tivi…, nhưng họ không thể chấp nhận sự thinh lặng vì họ sợ. Triết gia Pascal nhận xét rằng “tất cả những bất hạnh của con người đều xuất phát từ một sự thật duy nhất, đó là họ không thể yên lặng trong căn phòng riêng của mình”[3]. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy học nơi thánh Giuse cách vun trồng những khoảng không gian thinh lặng, nơi mà một Lời khác, là Chúa Giêsu, Ngôi Lời, có thể xuất hiện đó là lời của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong chúng ta, Đấng mang Chúa Giêsu. Không dễ dàng để nhận ra Tiếng nói đó, vốn rất hay bị lẫn lộn cùng với muôn ngàn tiếng lo lắng, cám dỗ, ham muốn và hy vọng có trong lòng chúng ta; nhưng nếu không có sự huấn luyện thực sự từ việc thực hành im lặng này, thì ngay cả lời nói của chúng ta cũng có thể là tồi tệ, gây hại. Thay vì làm cho sự thật tỏa sáng, nó có thể trở thành một vũ khí nguy hiểm. Thật vậy, lời nói của chúng ta có thể trở thành xu nịnh, khoác lác, dối trá, đâm sau lưng và vu khống. Đó là một sự thật, như Sách Huấn Ca đã nhắc nhở chúng ta, “cái lưỡi giết hại nhiều hơn gươm giáo” 28,18. Chúa Giêsu đã nói rõ bất cứ ai nói xấu anh chị em mình, ai nói xấu người thân cận, là kẻ giết người x. Mt 5,21-22. Giết người bằng lưỡi. Chúng ta không tin điều này nhưng đó là sự thật. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về những lần chúng ta giết người bằng lưỡi của mình, chúng ta sẽ thấy xấu hổ! Nhưng suy nghĩ về điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Sự khôn ngoan trong Kinh Thánh khẳng định rằng “Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó sẽ lãnh nhận hậu quả” Cn 18,21. Và trong thư của mình, như chúng ta đã đọc lúc đầu, thánh Giacôbê khai triển chủ đề cổ xưa này về quyền lực, khía cạnh tích cực và tiêu cực, của lời nói với những ví dụ nổi bật “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân... Cái lưỡi cũng vậy nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn... Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa. Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa” 3,2-10. Đức Thánh Cha giải thích Đây là lý do tại sao chúng ta phải học nơi thánh Giuse để trau dồi sự thinh lặng không gian nội tâm trong ngày sống của chúng ta, trong đó chúng ta để cho Chúa Thánh Thần có cơ hội tái tạo chúng ta, an ủi và sửa chữa chúng ta. Tôi không bảo là hãy câm lặng. Không. Hãy thinh lặng. Nhưng mỗi người chúng ta hãy nhìn vào nội tâm, nhiều khi chúng ta đang làm một công việc và khi hoàn thành, ngay lập tức chúng ta tìm điện thoại di động để làm việc khác... chúng ta luôn như thế này. Và điều này không giúp ích được gì, điều này khiến chúng ta rơi vào tình trạng hời hợt. Chiều sâu của trái tim lớn lên cùng với sự thinh lặng, một sự thinh lặng không phải là câm lặng mà là khoảng trống cho sự khôn ngoan, suy tư và Thánh Thần. Chúng ta sợ những khoảnh khắc thinh lặng, đừng sợ! Nó sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều. Và, điều thiện ích đối với trái tim của chúng ta cũng sẽ chữa lành cái lưỡi của chúng ta, lời nói của chúng ta và trên tất cả những lựa chọn của chúng ta. Trên thực tế, thánh Giuse đã kết hợp sự thinh lặng với hành động. Thánh nhân không nói, nhưng ngài đã hành động, và do đó thể hiện điều Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ của Người “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” Mt 7,21. Thinh lặng, nói điều đúng, cắn lưỡi một chút đôi khi tốt cho bạn thay vì nói những điều vô nghĩa. Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh nguyện Lạy thánh Giuse, con người thinh lặng, trong Tin Mừng ngài đã không nói một lời nào, xin dạy chúng con đừng nói những lời vô ích, để khám phá lại giá trị của những lời nói xây dựng, khuyến khích, an ủi và nâng đỡ. Xin gần gũi những người phải chịu đựng những lời nói làm tổn thương, như vu khống và đâm thọc sau lưng, và xin giúp chúng con luôn kết hợp lời nói với việc làm. Amen. [1] Diễn từ 288, 5 PL 38, 1307. [2] Những lời của ánh sáng và tình yêu, BC, MADRID, 417, số 99. [3] Pensées, 139.
Link lãnh thổ Perea, ngày nay là Giođan, trên đỉnh đồi cao hơn mực nước Biển Chết 100m, sừng sững pháo đài nguy nga của Machareus. Đó là nơi Vua Hêrôđê Antipa bỏ tù Gioan Tẩy Giả x. Mc 6,17. [1] Trong ngục sâu lạnh lẽo và ẩm thấp đẽo trong đá, bóng tối và thinh lặng bao trùm. Gioan bị dày vò bởi suy nghĩ liên tục lặp đi lặp lại này thời gian trôi qua mà Giêsu vẫn chưa mặc khải mình rõ ràng như Gioan từng hy vọng. Gioan nhận được tin tức về những việc làm vĩ đại của Người x. Mt 11,2, thế nhưng dường như Giêsu không tỏ vẻ là Đấng Mêsia. Và khi dân chúng hỏi trực tiếp, Người vẫn lặng thinh. Chẳng lẽ Gioan đã lầm sao? Nhưng Gioan đã thấy mọi sự quá rõ ràng cơ mà! Gioan đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người x. Ga 1,32-43. Vì thế, Gioan gửi một vài môn đệ đi hỏi Giêsu “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Mt 11,3.Chúa Giêsu trả lời bằng một cách không thể ngờ. Thay vì đưa ra câu trả lời rõ ràng, Người hướng sự chú ý của họ đến những việc làm của Người “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Mặc dù có chút ẩn ý, nhưng lời đáp của Đức Giêsu đủ rõ đối với những ai biết lời tiên tri trong Sách Thánh ám chỉ sự xuất hiện của Đấng Mêsia và Vương Quốc của Người. “Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên!” Is 26,19. “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được” Is 35,5. Chúa Giêsu khích lệ Gioan hãy tin tưởng Người “Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” Mt 11,6.Trong bối cảnh ấy, chúng ta có thể thấy một sự tương đồng với những ai thấy khó có thể nhận ra tiếng Chúa nói trong lúc cầu nguyện. Khi chúng ta thấy chính mình trong tình huống như vậy, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy thay đổi hoàn toàn quan điểm của mình, từ bỏ lòng mong muốn của bản thân đối với những xác tín nhân loại mà bước vào cuộc phiêu lưu mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng nói với chúng ta qua hành động và qua Thánh Kinh. Trong lời nói cuối của Chúa Giêsu - “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”, chúng ta khám phá lời mời gọi bền đỗ với lòng tin tưởng trong cầu nguyện, ngay cả đôi khi Chúa dường như không trả lời rõ ràng như ta mong động có thể phá vỡ “thinh lặng”Khi bắt đầu cầu nguyện, người ta thường đối mặt với sự “thinh lặng” bề ngoài của Thiên Chúa. “Tôi nói chuyện với Người, tôi kể cho Người nghe những lắng lo của tôi. Tôi hỏi Người về những việc nên làm, nhưng Người không trả lời tôi. Người chẳng nói gì với tôi cả.” Đây cũng là lời than thở của ông Gióp “Con kêu lên Ngài, nhưng Ngài không đáp lời, con trình diện Ngài, nhưng Ngài chẳng lưu tâm” Gióp 30,20. Thật dễ bối rối “Tôi vẫn nghe bảo rằng cầu nguyện là một cuộc đối thoại, nhưng Chúa chẳng bao giờ nói với tôi điều gì cả. Nếu Chúa nói chuyện với ai đó…, tại sao Người không nói với tôi? Tôi đang làm điều gì sai chăng?” Những hoài nghi này của người cầu nguyện đôi khi có thể dẫn đến cám dỗ mất lòng cậy trông. “Nếu Chúa không trả lời tôi, tại sao tôi phải cầu nguyện?” Và nếu sự thinh lặng này được hiểu là sự vắng mặt của Thiên Chúa, điều ấy thậm chí trở thành một cám dỗ nghịch lại đức tin “Nếu Chúa không nói với tôi, chắc Người cũng không tồn tại.”Chúng ta có thể nói gì để trả lời tất cả những câu hỏi trên? Trước hết, thật vô lý khi chối từ sự tồn tại của Thiên Chúa do sự im lặng bề ngoài của Người. Thiên Chúa có thể chọn im lặng vì một lý do nào đó, và điều ấy không ảnh hưởng đến sự tồn tại hay không tồn tại của Người, cũng như không ảnh hưởng đến tình yêu Người dành cho chúng ta. Tin tưởng Chúa – và tin tưởng vào lòng nhân lành của Người – là điều quyết định. Trong mọi hoàn cảnh, thật tốt để khẩn cầu Người, với tất cả niềm tin và tín thác “Lạy Thiên Chúa, xin đừng làm thinh; xin đừng nín lặng ngồi yên, lạy Thiên Chúa!” Tv 83,1-2Chúng ta không nên nghi ngờ khả năng lắng nghe tiếng Chúa của bản thân. Trái tim con người có khả năng cần thiết, với sự giúp đỡ của ân sủng, để nghe Chúa nói với ta, cho dù khả năng này bị lu mờ bởi tội nguyên tổ và tội cá nhân của ta. Chương đầu tiên trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có tựa đề “Con người có khả năng đón nhận Thiên Chúa.” Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói trong một buổi tiếp kiến chung “Con người, như truyền thống tư tưởng Kitô giáo vẫn nói, thì “ capax Dei ”, có khả năng nhận biết Thiên Chúa, và nhận lãnh hồng ân Người ban tặng. Thật vậy, được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người có thể sống trong mối tương quan cá vị với Thiên Chúa.” [2] Đó là mối tương quan cá vị có hình thức như một cuộc đối thoại bằng lời nói và hành động. [3] Và đôi khi chỉ bằng hành động, tương tự như trong tình yêu giữa con người với dụ, như ánh mắt nhìn nhau giữa hai người cũng có thể là một cuộc đối thoại thinh lặng có những cái nhìn nói lên điều gì đó thật rõ ràng; do đó cuộc đối thoại tin tưởng giữa ta với Chúa cũng có thể diễn ra theo cách thức này ta ngắm nhìn Chúa và nhận ra rằng Chúa đang nhìn ta. Như cách Chúa Giêsu nhìn Gioan, ánh nhìn đã thay đổi vĩnh viễn cuộc đời người môn đệ.” [4] Sách Giáo lý nói rằng “chiêm niệm là cái nhìn của đức tin.” [5] Và thường thì, với tình yêu và ánh sáng cho cuộc đời ta, một ánh nhìn có thể quan trọng và ý nghĩa hơn là một chuỗi dài lời nói. Thánh Josemaria, khi chia sẻ về niềm vui có từ đời sống chiêm niệm, đã nói rằng “linh hồn lại vỡ òa một lần nữa trong một bài ca, một bài ca mới, vì linh hồn cảm nhận và biết rằng nó đang đắm mình dưới ánh nhìn yêu thương của Thiên Chúa, suốt cả ngày dài.” [6] Là “những hành khất của Chúa,” [7] chúng ta khiêm tốn nài xin rằng, ngoài việc nhận biết chân lý, chúng ta cũng có thể “cảm” được rằng tình yêu Thiên Chúa luôn ngắm nhìn chúng nay chưa từng có ai nói năng như ông ấyThánh Têrêsa Calcutta nói rằng “Chúng ta thưa chuyện với Chúa trong khẩu nguyện; Chúa nói chuyện với chúng ta trong trí nguyện. Rồi Thiên Chúa đổ tràn đầy Người trong chúng ta.” [8] Đây là nỗ lực giải thích điều không thể giải thích bằng lời. Thực tế, cầu nguyện là một mầu nhiệm vĩ đại. Cuộc “gặp gỡ huyền bí” này giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện diễn ra theo nhiều cách thức khác nhau. Một vài cách thức khó phân loại và không thể hiểu hoặc giải thích trọn vẹn. Như Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói về mầu nhiệm cầu nguyện “Chúng ta phải cảnh giác để khỏi bị lây nhiễm những não trạng của thế gian này, chẳng hạn có người cho rằng chỉ những gì lý trí và khoa học chứng minh được mới là chân lý, trong khi cầu nguyện là một mầu nhiệm vượt quá cuộc sống ý thức và vô thức của con người.” [9] Như Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta thường lo lắng tìm kiếm sự thật dựa trên những minh chứng không phải lúc nào cũng có thể tìm thấy trong cõi siêu Thiên Chúa chọn để nói với linh hồn ta vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta, và chúng ta không bao giờ có thể thấu hiểu hoàn toàn được. “Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!” Tv 139, 6. Bảng chữ cái chúng ta đang sử dụng không phải là bảng chữ cái của Thiên Chúa, ngôn ngữ chúng ta dùng chẳng phải là ngôn ngữ của Người. Khi Thiên Chúa nói, Ngài không cần các dây thanh âm; chúng ta nghe tiếng Người không phải bằng đôi tai nhưng từ nơi sâu thẳm và huyền nhiệm nơi con người chúng ta. Nhiều khi chúng ta gọi đó là tiếng nói của con tim, hoặc là tiếng lương tâm. [10] Thiên Chúa nói với ta từ thực tế của Người, và đến với thực tại của ta. Một ngôi sao có tương quan với những vì sao khác không phải qua ngôn từ, nhưng bằng lực hấp dẫn. Thiên Chúa không cần nói với chúng ta bằng lời, mặc dù Người có thể làm thế. Người nói bằng những công trình của Người và bằng những hành động bí ẩn của Thánh thần trong tâm hồn ta, lay động trái tim ta, khuấy động cảm xúc và soi sáng trí hiểu của ta để nhẹ nhàng lôi cuốn ta đến với Người. Điều ấy có thể đã xảy ra ngay từ đầu nhưng chúng ta không nhận ra. Với thời gian, Chúa sẽ giúp chúng ta nhận ra hành động của Người trong ta. Chẳng hạn Người sẽ giúp ta kiên nhẫn hơn, thấu hiểu hơn, hoặc làm việc tốt hơn, hay coi trọng tình bạn hơn… Tóm lại, tình yêu ta dành cho Chúa sẽ ngày càng triển nở mạnh mẽ Lý Hội Thánh Công Giáo nói rằng, với một người cầu nguyện, “ơn đầu tiên Chúa ban là tâm hồn người ấy được biến đổi.” [11] Việc biến đổi này thường diễn ra chầm chậm, từng chút một, và nhiều khi không thể nhận ra, tuy nhiên hoàn toàn chắc chắn và chúng ta phải học cách nhận ra và tạ ơn vì điều ấy. Đó cũng là những gì mà Thánh Josemaria đã làm vào ngày 07/08/1931 “Hôm nay, Giáo phận cử hành lễ Chúa Hiển Dung. Khi dâng ý Lễ, cha đã ghi nhận sự biến đổi nội tâm mà Thiên Chúa đã ban cho cha trong những năm tháng cư trú tại ex-Court… và cha có thể nói là sự biến đổi ấy đã xảy ra mà không cần sự cộng tác của bản thân cha. Sau đó, cha nghĩ rằng cha lại quyết tâm dâng hiến trọn đời cha để chu toàn Ý Chúa.” [12] Việc nhận ra sự “biến đổi nội tâm” trong cầu nguyện là một trong những cách Chúa nói với chúng ta… và đó quả là một cách tuyệt diệu! Khi ấy, chúng ta hiểu ra điều những vệ binh Đền thờ nói với các thượng tế về Đức Giê-su “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy” Ga 7,46. Không ai có thể nói như Thiên Chúa bằng cách biến đổi con tim chúng Thiên Chúa là lời “sống động và hiện hữu” Dt 4,12. Lời ấy biến đổi chúng ta, và hành động của Thiên Chúa nơi tâm hồn ta vượt trên sự hiểu biết của ta. Như Thiên Chúa đã nói qua ngôn sứ Isaia “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” Is 55, 9-11. Hiệu lực huyền diệu này là một lời mời gọi chúng ta triển nở trong khiêm tốn, đó là “nền tảng của cầu nguyện. Chỉ khi chúng ta khiêm tốn nhận ra rằng chúng ta không biết cách cầu nguyện sao cho nên’, chính lúc đó chúng ta sẵn sàng đón nhận một cách tự do hoa trái của cầu nguyện.” [13] Chúng ta sẵn sàng mở lòng mình trong tín thác cho hành động của Thiên tự do siêu phàm của Thiên ChúaThiên Chúa lên tiếng khi Người muốn. Chúng ta không để đặt giới hạn cho Chúa Thánh Thần. Bàn tay ta không thể điều khiển hành động của Người trong tâm hồn ta. Có lần, Thánh Josemaria nói rằng Chúa Kitô hiện diện trong nhà tạm “là Thiên Chúa lên tiếng khi Người muốn, vào lúc ta ít mong đợi nhất, và Người nói những điều cụ thể. Rồi Người thinh lặng, vì Người muốn ta đáp lại bằng lòng tin tưởng và trung tín.” [14] Vì chúng ta “đi vào cầu nguyện” không qua cửa lớn của các giác quan – thị giác, thính giác, cảm giác – nhưng “qua cửa hẹp của đức tin”, [15] thể hiện trong sự quan tâm và lòng kiên trì mà chúng ta đặt để vào thời gian cầu nguyện. Và dù chúng ta có thể không ngay lập tức nhận ra, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta luôn sinh hoa ấy thường xảy ra với Đấng Sáng lập Opus Dei. Ví dụ, ngày 16/10/1931, cha bảo chúng tôi “Cha muốn cầu nguyện sau Thánh Lễ, trong ngôi thánh đường tĩnh mịch. Thế nhưng cha không thể cầu nguyện được. Trên đường Atocha, cha mua một tờ báo ABC, rồi lên xe điện. Cho đến lúc ấy, như cha viết những dòng này, cha không thể đọc được hơn một đoạn trong tờ báo ấy. Cha đột nhiên cảm nhận một lời cầu nguyện với cảm xúc dạt dào và nồng cháy dâng trào trong cha. Đó là lúc cha ở trong xe điện, trên đường về nhà.” [16] Thánh Josemaria đã cố gắng cầu nguyện trong một nơi tĩnh mịch. Thế nhưng, vài phút sau đó, giữa sự xô bồ và hối hả của chuyến xe đông đúc, khi bắt đầu đọc báo, Ngài mới được ân sủng Thiên Chúa cuốn lấy và trải nghiệm “lời cầu nguyện siêu phàm nhất” trong cuộc đời, như lời tường thuật của vị thánh khác cũng làm chứng về sự tự do của Thiên Chúa khi nói chuyện với tâm hồn bất cứ khi nào và bất kỳ nơi nào Người muốn. Ví dụ Thánh Têrêsa Avila kể trong quyển “Đời tự thuật” “Tôi tự cười mình và cảm thấy dễ chịu khi nhận ra rằng linh hồn có thể chìm sâu đến mức nào khi Thiên Chúa không hoạt động nơi ấy. Trong tình trạng đó, linh hồn nhận ra rõ ràng rằng trong linh hồn lúc ấy không có Chúa điều này không giống như những thử thách khắc nghiệt mà tôi đã nói là tôi từng trải nghiệm đôi lần. Linh hồn thu nhặt củi và tự mình làm tất cả những gì có thể, thế nhưng không tìm ra cách để thắp lên ngọn lửa của Tình yêu Thiên Chúa. Làn khói chỉ bay lên nhờ lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa mà thôi, điều ấy cho thấy là ngọn lửa không hoàn toàn bị dập tắt. Rồi Thiên Chúa sẽ trở lại và châm lên ngọn lửa, trong lúc linh hồn đang làm mình phát điên khi cố thổi bùng ngọn lửa và xếp thêm củi vào, vì mọi nỗ lực của linh hồn chỉ khiến ngọn lửa ngày càng lịm tắt. Tôi tin điều tuyệt vời nhất là linh hồn hoàn toàn từ bỏ thực tế rằng nếu chỉ một mình thì linh hồn chẳng thể làm được điều chi… và học hỏi bằng trải nghiệm rằng thật nhỏ bé những gì linh hồn có thể làm với chính mình.” [17]Trong thực tế, Thiên Chúa nói với chúng ta rất nhiều lần. Hoặc nói đúng hơn, Thiên Chúa không bao giờ ngừng nói với chúng ta trong mọi thời khắc. Theo cách nào đó, học cầu nguyện chính là học để nhận ra “giọng” của Chúa trong những việc của Người, giống như Chúa Giêsu đã giúp Gioan Tẩy Giả nhận ra. Chúa Thánh Thần không bao giờ ngừng hoạt động trong tâm hồn chúng ta. Như Thánh Phaolô đã nhắc nhớ các tín hữu Côrintô “không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” 1 Cr 12,3. Điều này làm chúng ta thấy bình an. Nhưng nếu ai đó đánh mất nhìn nhận về sự thật này thì có thể sẽ dễ nản lòng. “Một số người tìm kiếm Chúa qua cầu nguyện nhưng nhanh chóng thất vọng bởi lẽ họ không biết rằng lời cầu nguyện đến từ Chúa Thánh Thần và không đến từ chính họ.” [18] Để không bao giờ nản lòng khi cầu nguyện, chúng ta cần có một lòng tín thác vĩ đại nơi Chúa Thánh Thần và nơi những cách thức phong phú và nhiệm mầu Người hành động nơi linh hồn ta “Chuyện nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ất không biết.” Mc 4,26Jose Brage[1] X. Flavius Joseph, Khảo cổ Do Thái , 18, 5, 2[2] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung, 26/07/1998[3] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2567[4] Thánh Josemaria, ghi chép từ một buổi suy niệm, 09/01/1959; trong Khi Người nói với chúng ta lúc đi đường; tr. 87.[5] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2715[6] Bài giảng “Hướng về sự Thánh thiện”, trong Bạn Của Chúa , số 307[7] Thánh Âu-tinh, Bài giảng 56, 6, 9.[8] Thánh Têrêsa Calcutta, Không Tình yêu nào vĩ đại hơn , Thư viện Thế giới mới, tr. 5.[9] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2727[10] “Lương tâm là tâm điểm sâu lắng nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ GS 16.” Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1776[11] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2739[12] Thánh Josemaria, Ghi ch ép thân mật, số 217; trong Andres Vazquez de Prada, Đấng Sáng lập Opus Dei, Quyển 1, Nhà xuất Bản Scepter, 2001, tr. 287-288[13] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2559[14] Thánh Josemaria, Ghi ch ép trong một buổi họp mặt gia đình , 18/06/1972 Cronica, 2000, trang 243[15] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2656[16] Thánh Josemaria, Ghi chép thân mật, số 334; trong Andres Vazquez de Prada, Đấng Sáng lập Opus Dei , Quyển 1, Nhà xuất Bản Scepter, 2001, trang 294[17] Cuộc đời Thánh Têrêsa Giêsu , dịch bởi E. Allison Peers, Image Book, chương 17, trang 216-217.[18] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2726.
Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu sống theo lời Chúa Giêsu dạy có nói có, không nói không. Hãy sống theo sự thật mới có thể yêu thương; ngược lại, giả hình thì không biết yêu thương và còn nguy hiểm cho sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hồng Thủy - Vatican News Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư tuần trước, 18/7/2021, Đức Thánh Cha đã giải thích cho các tín hữu về lời giảng dạy của thánh Phaolô Những ai sống theo ơn Chúa Kitô thì được tự do khỏi những ràng buộc của Luật Môsê. Trong bài giáo lý sáng thứ Tư 25/8/2021, Đức Thánh Cha giải thích về việc thánh Phaolô khiển trách thánh Phêrô vì thói giả hình, bởi vì khi thấy các Kitô hữu gốc Do Thái đến, thánh Phêrô không ngồi ăn chung với các Kitô hữu gốc dân ngoại nữa. Và thói giả hình này tạo nên sự chia rẽ trong cộng đoàn. Đức Thánh Cha giải thích rằng giả hình là sợ hãi sự thật, sợ nói sự thật, sợ hành động theo sự thật, từ đó dẫn đến việc sống giả hình, nói một đàng làm một nẻo. Giả hình là thứ lây lan như virus; nó xảy ra ở nơi làm việc, trong đời sống chính trị và thậm chí, đáng ghê tởm hơn, trong chính Giáo hội. Ngài cảnh giác về chủ nghĩa hình thức, điều có thể dẫn đến thói giả hình. Buổi tiếp kiến bắt đầu với đoạn thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galát , trong đó thánh nhân thuật lại việc ngài đã khiển trách thánh Phêrô Nhưng khi ông Kê-pha đến Antiokia, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách… Tôi đã nói với ông Kêpha trước mặt mọi người “Nếu ông là người Do Thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do Thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do Thái? Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý dựa trên đoạn sách Thánh này. Bài giáo lý của Đức Thánh Cha Thư gửi tín hữu Galát thuật lại một sự việc khá ngạc nhiên. Như chúng ta đã nghe, thánh Phaolô nói rằng ngài đã khiển trách ông Kêpha, nghĩa là thánh Phêrô, trước mặt cộng đoàn tại Antiokia, bởi vì hành động của thánh Phêrô không tốt cho lắm. Điều gì nghiêm trọng đã xảy ra đến mức thánh Phaolô cảm thấy cần phải nói với thánh Phêrô những lời lẽ gay gắt như thế? Có phải thánh Phaolô đang cường điệu hóa, và đã để cho tính cách của ngài thể hiện quá nhiều và không biết kiềm chế bản thân? Chúng ta sẽ thấy rằng không phải như thế; nhưng một lần nữa, tương quan giữa Lề Luật và tự do được nêu bật. Sự chia rẽ Đức Thánh Cha giải thích về những lời của thánh Phaolô Khi viết thư cho các tín hữu Galát, thánh Phaolô chủ ý nhắc đến sự kiện đã xảy ra vài năm trước tại Antiokia. Ngài muốn nhắc nhở các Kitô hữu của cộng đoàn đó rằng họ tuyệt đối không được nghe những người đang rao giảng rằng cần phải cắt bì, và do đó “bị Lề Luật giam cầm” bằng tất cả các quy định của nó. Điều thánh Phêrô chỉ trích nơi thánh Phêrô chính là hành vi của thánh Phêrô khi ngồi vào bàn ăn. Đối với một người Do Thái, Lề Luật cấm ăn uống với những người không phải là người Do Thái. Nhưng trong một hoàn cảnh khác, chính thánh Phêrô, đã đến nhà của đại đội trưởng Conêliô ở Xêdarê, dù biết rằng mình đang vi phạm Lề Luật. Do đó, thánh nhân khẳng định “Thiên Chúa đã cho tôi thấy là không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch” Cv 10, 28. Khi thánh Phêrô trở về Giêrusalem, các Kitô hữu đã chịu phép cắt bì, những người trung thành với Luật Môsê, đã khiển trách ngài về hành vi của ngài. Tuy nhiên, ngài biện minh cho mình rằng “Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần’. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?” Cv 11, 16-17. Một sự việc tương tự cũng đã xảy ra tại Antiokia khi có thánh Phaolô. Đầu tiên, thánh Phêrô đã dùng bữa với những Kitô hữu có nguồn gốc ngoại giáo mà không gặp vấn đề gì; tuy nhiên, khi một số Kitô hữu đã cắt bì từ Giêrusalem - những người từ Do Thái giáo - đến thành phố này, thì ngài không còn làm như vậy nữa, vì ngài không muốn bị họ chỉ trích. Điều sai lầm chính là ngài quá chú trọng đến những lời phê bình, chú trọng đến việc tỏ ra mình là một người tốt hơn là chú trọng đến thực tế, đến các mối liên hệ. Và điều này thật nghiêm trọng đối với thánh Phaolô, vì các môn đệ khác đã bắt chước thánh Phêrô, đặc biệt là Banaba, người thậm chí đã truyền giáo cho người Galát xem Gl 2, 13. Thực ra, dù không muốn, nhưng khi làm như vậy, với thai độ không rõ ràng, thánh Phêrô đang tạo ra sự chia rẽ không đúng trong cộng đồng. Thói giả hình sợ hãi sự thật Khi khiển trách, thánh Phaolô sử dụng một thuật ngữ cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về phản ứng của ngài thói giả hình xem Gl 2,13. Việc tuân giữ Lề Luật của các Kitô hữu đã gây nên hành vi giả hình này, điều mà thánh Tông đồ muốn chống lại một cách mạnh mẽ và thuyết phục. Giả hình là gì? Nó có thể được gọi là sự sợ hãi sự thật. Người giả hình sợ hãi sự thật. Người ta thích giả vờ hơn là là chính mình. Nó giống như trang điểm cho tâm hồn, giống như trang điểm trong thái độ, giống như trang điểm trong cách làm nó không phải là sự thật. Sự giả vờ bóp nghẹt can đảm để công khai nói điều là sự thật; và do đó nó có thể dễ dàng tránh được nghĩa vụ nói sự thật mọi lúc, mọi nơi và bất chấp mọi thứ. Trong một môi trường mà các mối quan hệ giữa các cá nhân được thể hiện theo giáo huấn của chủ nghĩa hình thức, thì vi rút giả hình dễ dàng lây lan. Mẫu gương của cụ Elada trong sách Macabê Trong Kinh Thánh có một số ví dụ chống lại thói giả hình. Đức Thánh Cha trình bày chứng tá tuyệt đẹp của cụ Elada, người được yêu cầu giả vờ ăn thịt đã được hiến tế cho các vị thần ngoại giáo để cứu mạng sống của chính mình. Nhưng người kính sợ Chúa đó trả lời “Ở tuổi chúng tôi, giả vờ là điều bất xứng, e rằng có nhiều thanh niên sẽ nghĩ là ông già Elada đã chín mươi tuổi đầu, mà còn theo những lề thói dân ngoại. Rồi bởi tôi đã giả vờ và ham sống thêm một ít lâu nữa, nên họ bị lầm lạc vì tôi, còn tôi thì chuốc lấy vết nhơ và ô nhục cho tuổi già” 2 Mac 6, 24-25. Ông chân thật, không đi theo con đường giả hình. Thật là một câu chuyện hay để suy tư để tránh xa thói đạo đức giả! Chúa Giêsu cũng lên án thói giả hình Đức Thánh Cha cũng đề cập đến một số tình huống được thuật lại trong các sách Tin Mừng, khi Chúa Giêsu mạnh mẽ trách những người chỉ tỏ vẻ bề ngoài, nhưng bên trong chứa đầy sự giả dối và gian ác x. Mt 23, 13-29. Ngài gợi ý với các tín hữu tham dự buổi tiếp kiến Nếu anh chị em có chút thời gian, hãy mở chương 23 của Tin mừng thánh Mátthêu và sẽ thấy bao nhiều lần Chúa Giêsu nói “những kẻ giả hình, những kẻ đạo đức giả”, và cho thấy thế nào là thói giả hình. Người giả hình không biết yêu thương, thậm chí còn gây chia rẽ Những kẻ giả hình là những người giả vờ, xu nịnh và lừa dối bởi vì họ sống với một chiếc mặt nạ che mặt và không có đủ can đảm để đối mặt với sự thật. Vì thế họ không có khả năng yêu thương thực sự họ tự giới hạn mình trong việc sống theo chủ nghĩa vị kỷ và không có đủ sức mạnh để thể hiện tấm lòng của mình một cách minh bạch. Có rất nhiều tình huống mà thói giả hình đang diễn ra. Nó thường diễn ra ở nơi làm việc, nơi có người tỏ ra bầu bạn với đồng nghiệp của họ, đồng thời đâm sau lưng người ta do cạnh tranh. Trong đời sống chính trị, không có gì lạ khi thấy những kẻ giả hình, những người sống theo cách này ở nơi công cộng và theo cách khác ở nơi riêng tư. Và đặc biệt, thói giả hình trong Giáo hội đặc biệt đáng ghê tởm. Chúng ta đừng bao giờ quên lời của Chúa “Hễ có’ thì phải nói có’, không’ thì phải nói không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” Mt 5, 37. Đừng sợ là người trung thực Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ về điều thánh Phaolô lên án thói giả hình; và Chúa Giêsu kết án thói đạo đức giả. Và chúng ta đừng sợ là những người trung thực, nói sự thật, nghe sự thật, sống theo sự thật. Như thế, chúng ta sẽ có thể yêu. Một kẻ giả hình không biết yêu thương. Hành động khác với sự thật có nghĩa là gây nguy hiểm cho sự hiệp nhất của Giáo hội, sự hiệp nhất mà chính Chúa đã cầu nguyện.
Suy niệm Chúa nhật VI Phục Sinh – Năm CTháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui Tháng Hoa. Mỗi độ tháng Hoa, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương. Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật diệu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên đã trở thành một người bạn thật thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng “Mừng vui lên, hỡi ấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” Lc 1,28. “ấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là ấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12.Chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm là ngày Hiền Mẫu, Mother’s Day. Xin chúc mừng và tôn vinh tất cả những người nữ nhận từ Thiên Chúa thiên chức làm Mẹ. Xin tạ ơn Chúa. Xin tạ ơn người Mẹ của chúng con, dù sống hoặc đã về bên người chúng ta đều có một người mẹ. Tình yêu của mẹ bao la hơn biển cả, cao vời hơn các tầng mây, vĩ đại hơn những rặng núi, mênh mông vô tận. Một văn sĩ đã viết “Thơ viết về mẹ bao giờ cũng đạt, nhạc viết về mẹ bao giờ cũng hay, tranh vẽ về mẹ bao giờ cũng tuyệt, cũng đẹp. Bởi hiển nhiên, mẹ là nguồn xúc cảm sâu xa, vô tận và nhiệm mầu nhất trong mọi nguồn sáng tạo”. Tình yêu của mẹ là một nguồn cảm hứng không bao giờ cạn vơi, là những tư tưởng vô tận của các thi sĩ, văn sĩ và nghệ mẹ thương con bao la như trời như biển. Nói đến tình mẹ, không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu vần thơ, bao nhiêu câu hò, điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”Với giai điệu mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ. Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người cũng nhận lấy tình mẫu tử trân quý ấy. Mẹ Maria đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình suốt hành trình cứu Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Yêu mến và giữ lời Đức Kitô, mỗi tín hữu được đón nhận sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tình yêu này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng mỗi người. Thiên đàng ấm áp nơi tâm hồn những ai biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Các bí tích đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa mỗi người với Đức Kitô được lớn Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. Tin Mừng Lc 11,27-28 kể câu chuyện Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”.Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cứu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ nghe và giữ lời Thiên Chúa như thế nào? Đây là bài học chúng ta cần học hỏi trong Năm ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên đó đang đến gõ cửa lòng ta hằng ngày. Chúa mong ta cưu mang Ngài, sống với Ngài, thực hiện lời Ngài. Hôm nay Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, qua Lời Ngài mà Giáo Hội đang rao kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ “ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Lại một lần nữa Chúa nói lời với hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là tán dương Mẹ Maria là người diễm phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ý nghĩa thứ hai, Chúa mời gọi mọi người trở nên những người thân thuộc của gia đình mới, gia đình thiêng liêng của Ngài, bằng cách lắng nghe, tin yêu và tuân giữ lời Thiên lẽ, chúng ta đã nghe Lời Chúa nhiều, ít là hằng tuần, nhưng đã thực hiện lời Chúa thế nào? Chúng ta có thói quen đọc Lời Chúa trong gia đình không?Mục tiêu hàng đầu của đời sống tín hữu là biết lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa, là đem Lời Chúa ra thực hành hằng ngày. Trước mọi biến cố xảy đến, Đức Mẹ đều coi là thánh ý Thiên Chúa nên Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng để xin vâng thánh ý tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hịêp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với các bà mẹ, cuộc đời của người mẹ nào cũng đầy cam go, truân chuyên vất vả. Gian truân hơn bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta đây. Nhưng Mẹ Maria đã vượt qua tất cả trong niềm tin yêu vào Lời Chúa. Mẹ luôn tín thác vào tình thương của Ngài. Hãy vững tin vào Lời Chúa. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống sẽ tốt đẹp mỗi dịp tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng theo nhân Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta biến thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng và khấn xin. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong ngày Tháng Năm này, nếu thiếu những bông hoa hữu hình, ta hãy hái hoa hồng thiêng là kinh Mân Côi để dâng lên Mẹ. Nhưng thế nào đi nữa, nguyện ước trái tim chúng ta hãy biến thành một dàn hoa kết đủ những hương hoa thơm ngát nhân đức dâng kính cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng dâng lên Mẹ những sắc hoa của cuộc đời chúng con. Ước gì cuộc đời chúng con luôn là những bông hoa tươi thắm dâng tặng cho đời xuân sắc, lan toả hương thơm bác ái trong môi trường sống của chúng con. Giuse Nguyễn Hữu An Post Views 342
Dù không phải là người Công Giáo, có lẽ không ai lại không nghe nói đến Đức Mẹ Maria, mẹ của Chúa Giêsu. Mọi người chắc cũng thường nghe kể về những phép lạ được cho là do Mẹ Maria làm và một số nơi được cho là Đức Mẹ hiện ra đã trở thành những thánh địa thu hút không biết bao nhiêu là tín đồ. Đối với người Công Giáo, Đức Mẹ dịu hiền, nhân từ có lẽ còn gần gũi hơn là Đức Chúa Giêsu, những khi cần được an ủi, chở che, ai cũng tìm đến Đức Mẹ. Nhưng thật sự thì có mấy ai trong chúng ta biết rõ về thân thế của Mẹ Maria, nhân vật mà Kinh Thánh kể rất sơ sài? Tin Mừng theo Thánh Matthêô chỉ nói về Mẹ Maria như sau ức Giêsu Kitô sinh ra thế nàyMaria, mẹ Ngài đã đính hôn với Giuse; trước khi ông bà phối hợp cùng nhau, thì xảy ra là bà đã có thai do tự Thánh Thần. Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà, thì định âm thầm ly dị. Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì này Thiên Thần Chúa hiện ra cho ông trong mộng bảo rằng "Giuse, con của avít, chớ sợ lấy Maria vợ ông thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần; bà sẽ sinh con, và ông sẽ đặt tên cho người con là Giêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi".Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng giấc, Giuse đã làm như Thiên Thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà; và giữa ông và bà không có việc giao tri vợ chồng, cả đến lúc bà sinh con, và ông đã đặt tên cho là Giêsu. »Ngoài đoạn nói trên, chỉ có vài lần Kinh Thánh nhắc đến Mẹ Maria. Sách Công Vụ Các Tông Đồ cũng chỉ thoáng nhắc đến Mẹ Maria ở phần đầu, rồi sau đó không nêu tên Mẹ Maria nữa, như thể là các tông đồ đã không hề giao cho Mẹ Maria một vai trò quan trọng nào trong Giáo hội sơ khai. Để lấp vào những khoảng trống trong cuộc đời của Mẹ Maria, các cộng đồng Thiên Chúa Giáo thời sơ khai đã viết các Tin Mừng bị xem là ngụy tác » apocrype, tức là Kinh Thánh không được Giáo Hội công nhận. Tuy có nêu tên bố mẹ của Maria, những Kinh Thánh này không mang lại những bằng chứng không thể chối cãi về cuộc đời của Mẹ Maria, nhưng cho chúng ta thấy rằng ngay từ những cộng đồng Thiên Chúa Giáo đầu tiên, Đức mẹ đã đóng một vai trò quan trọng. Người phụ nữ nổi tiếng nhất lịch sử thế giới »Các nhà sử học, đặc biệt là những nhà viết lịch sử tôn giáo, từ lâu cũng đã quan tâm đến nhân vật Mẹ Maria, được xem như là người phụ nữ nổi tiếng nhất lịch sử thế giới ».Như đã nói ở trên Kinh Thánh nói rất sơ sài về Mẹ Maria, và không nói gì về thân thế của Mẹ, nhưng nếu xem lịch Công Giáo thì ta sẽ thấy là ngày 26/07 hàng năm, Giáo Hội lại mừng nữ thánh Anna, được xem như là mẹ của Maria và thánh Gioakim, dường như là bố của Maria. Vấn đề là Anna và Gioakim chỉ được nhắc đến trong các Kinh Thánh ngụy tác », tức là Kinh Thánh không được Giáo Hội công nhận, được viết nhiều thập niên sau 4 sách Tin Mừng chính thống theo thánh Gioan, thánh Luca, thánh Marcô và thánh Mátthêô .Trong cuốn Marie », xuất bản năm 2004, nhà báo và nhà văn Pháp Jacques Duquesne, cũng là tác giả một cuốn sách về chúa Giêsu, nhắc lại rằng, theo Tin Mừng Giacôbê người anh em của Đức Giêsu , được cho là viết vào nửa sau thế kỷ 2, vợ chồng Anna và Gioakim khi đó rất đau buồn vì họ không thể có con. Đối với người Do Thái thì đây quả là một thảm họa và người phụ nữ hiếm muộn con như Anna thì chẳng khác gì bị nguyền rủa. Gioakim cũng đau khổ không kém, và để cầu xin Chúa đoái thương, ông đã vào sa mạc để nhịn ăn trong 40 ngày, theo tập quán thời đó. Đức tin của họ đã được tưởng thưởng, vì các thiên thần sau đó đã hiện ra cho hai người để báo cho Anna và Gioakim rằng họ sẽ có con. Khi đứa con ra sinh ra, bà Anna đặt tên là Maria. Bà cũng rất vui sướng, một điều mà Jacques Duquesne cho là đáng ngạc nhiên, vì thời đó truyền thống trọng nam khinh nữ rất nặng nề. Và việc chính bà đặt tên cho con cũng bất thường, vì đó là đặc quyền của người như đối với Chúa Giêsu, không thể nào xác định được Mẹ Maria chào đời khi nào, nhưng các nhà sử học phỏng đoán Mẹ Maria sinh vào năm 20 hoặc 18 trước Công nguyên, nếu chúng ta dựa vào giả thuyết Chúa Giêsu xuống thế làm người vào khoảng năm 6 hoặc 4 trước Công nguyên. Điều này có nghĩa là khi hạ sinh Chúa Hài Đồng, Đức Mẹ chỉ mới là một thiếu nữ 14 tuổi. Theo các Kinh Thánh ngụy tác », Mẹ Maria đã chào đời ở Jerusalem. Chẳng có bằng chứng lịch sử nào để xác nhận điều đó, thế mà một số hướng dẫn viên du lịch dám đưa khách đến tham quan căn nhà mà họ khẳng định là nhà của bố mẹ Maria, Anna và Gioakim ! Nhưng nếu dựa theo Tin Mừng theo thánh Luca thì Mẹ Maria sinh ra ở Nazareth, thời đó chỉ là một ngôi làng nhỏ có vài trăm dân, nằm cách Jerusalem khoảng 100 km về phía bắc. Theo tác giả Christian Makarian, tác giả cuốn Marie », xuất bản năm 1995, rất nhiều dân làng lúc đó sống trong những căn nhà được dựng ngay trong các hang đá, bình thuờng họ ăn uống rất đạm bạc với rau quả và cá, chỉ đến những ngày lễ mới được vài miếng thịt, nhưng họ cũng không phải thiếu đói như ở những vùng khác. Vào thời vùng Galilê dưới sự chiếm đóng của quân La Mã, người phụ nữ Do Thái chỉ sống dưới cái bóng của người chồng, chẳng có vai trò gì khác ngoài việc sinh con và lo việc nhà. Số phận của Maria lẽ ra cũng đã là như thế. Khi chấp nhận đính hôn với Giuse, một người đàn ông lớn tuổi hơn rất nhiều và dường như đã có vợ trước, cô thiếu nữ Maria chắc cũng sẽ bằng lòng với cuộc sống của một người vợ đảm đang, thầm lặng. Nhưng theo Kinh Thánh thì chính người thiếu nữ nghèo hèn này đã được Thiên Chúa chọn để mang trong mình Đấng Cứu Thế. Và Tin Mừng này đã được thiên sứ Gabirel báo cho Maria Và này, nơi lòng dạ, người sẽ thụ thai, và sinh con, và người sẽ gọi tên Ngài là Yêsu. Ngài sẽ làm lớn, và được gọi là Con ấng Tối Cao, và Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai avit cha Ngài; và Ngài sẽ làm vua trên nhà Yacob cho đến đời đời, và vương quyền của Ngài sẽ vô cùng vô tận!" Nhưng trước khi vâng phục ý Chúa, cô muốn được Thiên sứ Gabirel giải trình » "iều ấy sẽ làm sao được? Vì việc phu thê tôi không nghĩ đến!" . Chỉ khi nghe Thiên sứ xác quyết Vì với Thiên Chúa, nào có gì lại là không có thể!" Maria mới nói "Này tôi là tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!".Theo tác giả J. Duquesne, khi vâng theo lời Chúa, Maria đã chấp nhận rước vào mình những rủi ro có thai trong khi đã đính hôn với Giuse chắc chắn sẽ bị thiên hạ xỉa xói, chắc chắn sẽ khiến bố mẹ nhục nhã, ấy là chưa kể có thể bị tử hình về tội ngoại người mẹ trần thếNhưng cho dù mang trong mình mầm mống của một tôn giáo mới, Kytô Giáo, Mẹ Maria cùng Thánh Giuse và Chúa Giêsu cũng phải sống theo đúng những quy tắc nghêm ngặt của Do Thái Giáo. Một trong những nghĩa vụ của tín đồ Do Thái Giáo là mỗi năm phải đến hành hương ở Jerusalem vào dịp Lễ Phục Sinh Do Thái Giáo, mừng sự kiện nguời Do Thái được giải phóng khỏi ách thống trị Ai Cập. Họ phải đi bộ suốt bốn ngày trời cùng với những đồng hương từ Nazareth đến Jerusalem. Sau lễ, họ thường ở lại vài ngày trước khi trở về vùng năm đó, khi Chúa Giêsu đến tuổi 12, trên đường trở về nhà, Maria và Giuse bị lạc con trai, bèn tức tốc quay lại Jerusalem. Sau mấy ngày trời lo lắng, tìm kiếm vô vọng, hai vợ chồng mới đến ngôi đền Jerusalem thì thấy Chúa Giêsu. Tin Mừng theo Thánh Luca kể lại rằng Chúa Giêsu lúc ấy đang ngồi giữa giữa các tấn sĩ mà nghe và hỏi họ. Mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp ». Khi Mẹ Maria trách con "Này con, tại sao con làm thế? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con!" Thì Chúa Giêsu đáp lại "Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao?" Một câu trả lời làm cha mẹ Ngài vô cùng sửng sốt. Theo Thánh Luca, ông bà đã không hiểu lời Ngài nói với họ ». Mẹ Maria có những người con khác ngoài Chúa Giêsu hay không ? Giáo hội thì vẫn khẳng định rằng Mẹ Maria vẫn đồng trinh đến trọn đời và là Mẹ Thiên Chúa, chỉ toàn tâm toàn ý cho người con duy nhất là Chúa Giêsu, nên không có quan hệ vợ chồng, và như vậy là không có những người con khác. Vấn đề là trong Kinh Thánh lại thấy nói đến anh chị em của Chúa Giêsu, như Tin Mừng Thánh Marcô có đoạn viết ến ngày Hưu lễ, Ngài lên tiếng giảng trong hội đường; và nhiều người nghe phải kinh ngạc mà rằng "Bởi đâu ông ấy được như thế? Và là gì vậy sự khôn ngoan ban xuống cho ông? Cùng các việc quyền năng ấy do tay ông làm ra? Ông ấy không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Yacôbê, Yôsê, Yuđa và Simôn đó ư?... ».Nhưng Giáo Hội Công Giáo không bao giờ xem những người đó là anh chị em ruột của Chúa Giêsu, mà chỉ là những người bà con hay những người có quan hệ họ hàng với Ngài. Một giả thuyết khác thì cho rằng thật ra đó là những người con mà Giuse có từ vợ nhận xét của Christian Makarian, tuy sẳn lòng làm tôi tớ Thiên Chúa, Maria dầu gì cũng như bao người mẹ khác nơi trần thế, lúc nào cũng quan tâm, lo lắng cho con. Cho nên Mẹ Maria chắc là cũng rất khổ tâm khi thấy con trai của mình có vẻ như chẳng màng đến quan hệ máu thịt với người đã cưu mang mình, như lời kể của Tin mừng theo Thánh Marcô Mẹ Ngài và anh em Ngài đến. Và đứng ngoài, họ sai người vào gọi Ngài. Ngồi xung quanh Ngài có một đám đông, và người ta nói với Ngài "Này mẹ Thầy và anh em Thầy đang tìm Thầy ở ngoài ". áp lại Ngài nói với họ "Ai là mẹ Ta và anh em Ta?" Rồi nhìn quanh mình các người ngồi vòng quanh Ngài, Ngài nói "Này là mẹ Ta và anh em Ta. Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".Thậm chí Tin Mừng theo Thánh Luca có đoạn ang khi Ngài nói thế, thì giữa dân chúng, một bà cất tiếng nói với Ngài "Phúc cho lòng dạ cưu mang ông, và vú ông đã bú!" Lẽ ra đây là dịp để Chúa Giêsu tiếp lời ca tụng mẹ mình, nhưng Ngài lại nói "Đúng hơn là phúc cho những ai nghe lời Thiên Chúa mà noi giữ". "Tín đồ đầu tiên" của Kitô giáoRõ ràng là đối với Giêsu, tuân lời Chúa còn quan trọng hơn là làm mẹ của Con Thiên Chúa. Tuy vậy, Mẹ Maria vẫn không hề giận con mà trái lại vẫn tin vào Chúa Giêsu, hay nói theo lời của Christian Markarian, Mẹ Maria chính là “tín đồ đầu tiên” của Kytô giáo trong lịch sử nhân loại. Điều này được thể hiện rõ trong câu chuyện về phép lạ biến nước thành rượu ở tiệc cưới Cana, xứ Galilê, mà Mẹ Maria và các môn đồ của Ngài cũng được mời đến. Tin mừng theo thánh Gioan kể lại “ Bởi hết rượu, nên mẹ ức Yêsu mới nói với Ngài "Họ không có rượu nữa!" ức Yêsu đáp lại "Này bà, giữa tôi và bà, nào có việc gì? Giờ của tôi chưa đến!" Mẹ Ngài nói với các người hầu "Ngài có bảo gì, hãy làm theo!" Ở đó có đặt sáu chum đá, chiếu theo lệ quán tẩy của người Do Thái, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng nước. ức Yêsu bảo họ "Hãy đổ đầy nước các chum!" Và họ đã đổ đầy thấu lợi. Rồi Ngài bảo họ "Bây giờ hãy múc đem cho ông quản tiệc". Và họ đã đem đi. Một khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu, mà ông không biết tự đâu đến - còn các người hầu, những người đã múc nước thì biết - ông mới gọi vị tân lang mà nói "Phàm người ta, trước tiên ai cũng thết rượu hảo hạng; khi khách ngà ngà thì đãi rượu xoàng hơn. Còn ông, ông đã giữ rượu hảo hạng cho đến bây giờ!"Câu nói đầy tin tưởng "Ngài có bảo gì, hãy làm theo!" chính là lời tuyên xưng đức tin mạnh mẽ nhất mà Mẹ Maria thốt ra. Cũng chính Mẹ Maria cũng đã theo Chúa Giêsu cho đến tận chân Thập Giá, nơi Ngài chịu đóng đinh để cứu chuộc nhân loại, bất lực, đau đớn nhìn đứa con yêu dấu trút hơi thở cuối cùng. Tin Mừng theo Thánh Gioan kể lại ứng bên khổ giá ức Yêsu, có Mẹ Ngài, và người chị em của Mẹ Ngài, Maria vợ của Klôpa, và Maria người Magđala. ức Yêsu thấy Mẹ Ngài, và môn đồ Ngài yêu mến đứng bên cạnh, thì Ngài nói với Mẹ "Hỡi bà, này là con bà!" oạn lại nói với môn đồ "Này là Mẹ con!" Và từ giờ đó, môn đồ đã lĩnh lấy bà về nhà mình ».Nếu căn cứ theo Tin Mừng theo Thánh Gioan, sau chặng thánh giá, Mẹ Maria đã chia sẻ những năm tháng khó khăn với các môn đệ Chúa Giêsu, cùng với họ tiếp tục rao giảng Tin Mừng bất chấp những truy bức, bách hại. Sách Công Vụ các Tông Đồ chứng nhận Mẹ Maria thuộc “ thành phần cộng đoàn tiên khởi”“ Khi vào rồi, họ lên lầu trên, chỗ họ lưu ngụ các ông Phêrô, Yoan, Yacôbê, Anrê, Philip, Thôma, Barthôlômêô, Matthêô, Yacôbê con của Alphê, Simôn Nhiệt Thành, Yuđa con của thảy họ đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria, mẹ ức Yêsu và các anh em Ngài.”Sự công nhận muộn màngNhưng trong suốt một thời gian dài, Giáo Hội Công Giáo hầu như lãng quên Mẹ Maria. Chỉ đến năm 431, Giáo Hội lần đầu tiên mới khẳng định Mẹ Maria cũng là Mẹ Thiên Chúa và Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và cũng chính là Thiên Chúa. Nhưng nếu chiếu theo Kinh Thánh thì Mẹ Maria cũng là một con người, tức là cũng mắc Tội tổ tông như bao người khác, làm sao có thể hạ sinh một đứa trẻ là Thiên Chúa như Giêsu?Để trả lời cho câu hỏi này, Giáo Hội đã dựa trên một đoạn trong Kinh Thánh, cụ thể một đoạn trong Tin Mừng theo Thánh Luca nói về chuyện thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến để nói với trinh nữ Maria Vui lên ! Hởi người đầy ơn phúc ! Chúa ở cùng người ! ». Vì được đầy ơn phúc của Chúa, cho nên tuy bố mẹ là con người, Mẹ Maria không bị nhiễm Tội tổ tông, hay Nguyên tội, cho nên Giáo hội mới gọi là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Giáo hoàng Pio IX đã đề ra giáo thuyết nói trên vào ngày 08/12/1845. Cụ thể là Đức Mẹ được xóa tội tổ tông và tuy là một tạo vật của Thiên Chúa, nhưng Mẹ vẫn gần gũi với con người, là người dẫn dắt nhân loại theo con đường cứu Đức Mẹ đã kết thúc cuộc đời trần gian như thế nào ? Đọc Kinh Thánh người không biết được là Đức Mẹ đã qua đời lúc nào, trong hoàn cảnh như thế nào. Chỉ đến ngày 01/11/1950, sau khi tham khảo ý kiến các giám mục và nhận được sự đồng thuận nhất trí của các vị này, Giáo hoàng Pio XII mới long trọng công bố rằng Đức Maria đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi kết thúc cuộc đời trần gian, cả hồn lẫn xác đã về trời trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong lịch Công giáo, ngày 15/08 được quy định là Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và là ngày nghỉ lễ chính thức ở một số quốc gia châu Âu. Còn cụm từ Mẹ Giáo Hội » chỉ bắt đầu có từ cuối Công đồng Vatican 2 năm 1963. Vào lúc đó, Giáo hoàng đã tuyên bố Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội, tức là mẹ của toàn thể giáo dân và những vị chăn chiên. Những di tích về Mẹ MariaTiểu vương cung Thánh đường Truyền tin ở Nazareth đã được xây tại nơi được cho là nơi mà thiên sứ Gabriel đã hiện ra để báo tin Đức Trinh Nữ Maria được thụ thai Chúa Giêsu nhờ ơn Thánh thần. Trong nhà thờ này có một bàn thờ được cho là phế tích của ngôi nhà mà Đức Mẹ sống vào thời thơ ấu. Cũng tại Nazareth, có một nguồn nước mà Đức Mẹ vẫn đến để lấy nướcỞ Thổ Nhĩ Kỳ, có một căn nhà gọi là Nhà của Đức Trinh Nữ Maria. Tuy Giáo Hội chưa chưa hề công nhận hay phủ nhận tính xác thực của ngôi nhà này, tuy nhiên hàng đoàn người hành hương vẫn tới thăm căn nhà này, từ khi phát hiện ra địa điểm này vào thế kỷ 19. Họ tin rằng, sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, để tránh bị bách hại, Đức Mẹ Maria đã được thánh Gioan đưa từ Jerusalem tới sống trong ngôi nhà bằng đá này cho tới khi Đức Mẹ Lên Trời theo giáo lý Công Giáo hoặc Đức Mẹ An Giấc theo giáo lý Chính Thống Giáo Đông Phương.Giáo hội Kitô giáo Đông Phương thì tin là Đức Trinh Nữ Maria đã được mai táng tại thung lũng Kidron, ở chân núi Olives, phía Đông Jerusalem và tại nơi đây hiện nay có Nhà thờ mộ Trinh Nữ Maria.
theo lời chúa nói